Từ lời ru Mường đến kho tàng tri thức bản địa

'Ru rú là rảy, tảy ti cho lô lô…', trong tiếng võng kẽo kẹt đung đưa, trong hương rừng dìu dịu buổi sớm, lời ru Mường cất lên, dịu dàng, thủ thỉ.

Tiếng ru của bà, của mẹ - khúc hát dịu dàng nuôi dưỡng tâm hồn trẻ thơ

Tiếng ru của bà, của mẹ - khúc hát dịu dàng nuôi dưỡng tâm hồn trẻ thơ

Giữa đại ngàn xứ Thanh, những giai điệu tưởng chừng mộc mạc, giản đơn ấy chất chứa cả một kho tàng tri thức bản địa, đạo lý sống và nhân sinh quan. Đó chính là tinh hoa văn hóa dân tộc Mường, đã theo bước chân mỗi người lớn lên, băng rừng vượt suối đi khắp bốn phương trời...

Đứa trẻ Mường được “sữa ru phần xác, hát ru phần hồn”, quả đúng vậy! Không chỉ ngủ trong vòng tay mẹ, trẻ lớn lên trong tiếng ru nối tiếp ngày qua ngày, mùa qua mùa, từ bà truyền cho mẹ, mẹ truyền cho con như một di sản không thể mất.

Lời ru ngân mãi giữa đại ngàn

Không cần nhạc cụ cầu kỳ, cũng chẳng cần dàn dựng sân khấu, hát ru Mường tự nó đã là một bản hòa tấu bất hủ. Từng câu, từng chữ cất lên bằng ngôn từ giản dị nhưng chất chứa tình cảm lớn lao, đó là tình mẫu tử, là nỗi lòng người mẹ gửi gắm ước vọng qua từng giai điệu.

Mỗi bài ru thường theo cấu trúc ba phần: Mở đầu bằng tiếng đệm như “lếu lếu lêu làng làng”, “rú ru là rảy”; tiếp đến là nội dung chính, nơi người mẹ trải lòng qua lời hát và khép lại nhẹ nhàng bằng âm thanh lặp đi lặp lại, như câu kết của một khúc ca. Làn điệu hát ru phổ biến trong cộng đồng người Mường xứ Thanh là: Hát ru cổ, Đánh Rang Bọ Mẹng.

Mỗi làn điệu đều mang sắc thái riêng. Hát ru cổ ngân dài, tha thiết, thường sử dụng những tích truyện dân gian như: Nàng Nga, Hai Mối, Nàng Ờm, Bồng Hương... Làn điệu Đánh Rang thì rộn ràng, nhanh hơn, vừa hát vừa kể, giống như một lời tâm tình có nhấn nhá, gieo vần lạ tai. Còn Bọ Mẹng là cách người hát pha trộn chất liệu dân gian với hơi thở hiện đại, dí dỏm mà sâu sắc, gần gũi mà không kém phần tinh tế.

Đặc biệt, ở mọi làn điệu, tiếng đệm và tiếng láy giữ vai trò như xương sống. “À í ôi à í ời…”, “là ụt ới là ụt ơi…”, những câu mở đầu, kết thúc không mang nghĩa cụ thể nhưng lại góp phần tạo nên nhịp điệu, duy trì mạch cảm xúc, vừa là dấu ấn văn hóa, vừa là chất kết dính trong mỗi lời ru.

Dưới bóng nhà sàn, trong tiếng gà gáy ban sớm hay giữa cái se lạnh của núi rừng đêm về, tiếng ru ấy vẫn vọng ngân. Với người Mường, lời ru không chỉ là thói quen chăm con, mà là một cách thực hành văn hóa sống, là hình thức giáo dục tinh thần sớm nhất cho mỗi con người.

Không cần đến sách vở, trường lớp, trẻ em Mường được dạy bảo từ thuở nằm nôi bằng chính những lời ru của bà, của mẹ. Mỗi câu hát là một bài học, mỗi làn điệu là một cánh cửa dẫn vào kho tàng tri thức dân gian đồ sộ. Người mẹ vừa ru con, vừa thủ thỉ dạy con cách nhận biết thế giới, cách làm người và yêu thương cộng đồng. Lời ru còn chứa đựng cả những tri thức nông nghiệp thiết yếu, từ mùa vụ đến cách gieo trồng, chọn giống, ủ phân, chăm ruộng. “Có nước mới có ruộng, thiếu nước chết khát, chết khô…”, câu hát vừa là cảnh báo, vừa là tôn vinh giá trị nước, giá trị đất.

Những tri thức thiên nhiên phong phú ẩn hiện trong từng lời ru: “Hoa bông danh nở thì trời nắng, hoa bông trắng nở thì trời râm…”, hay: “Chim quốc nó kêu về mùa tháng ba, u oa nó kêu về mùa tháng tư…”, giúp trẻ thơ học cách nhìn trời đoán thời tiết, đọc mùa qua biểu hiện của cây cỏ, động vật. Hát ru cũng nhắc đến kỹ năng chế biến thực phẩm như xay lúa, đồ xôi, gói cơm bằng lá dong, nhóm bếp… Câu hát “Gạo ngấm nước thì bắng niếng đồ xôi / Hông thì ở trên, niếng thì ở dưới…” chẳng khác gì một chỉ dẫn nấu ăn bằng âm nhạc, gói ghém kinh nghiệm mà lại dễ nhớ, dễ thuộc.

Qua những lời ru, hệ thống công cụ lao động như nơm, dao, cối, chày, thuyền, lưới… hiện ra sống động. Đứa trẻ khi lớn lên, nhờ những hình ảnh quen thuộc đó mà không xa lạ với lao động. Những câu ru còn chỉ cách chọn đất làm nương, chọn nơi bẫy chim, săn thú, chỉ tên từng con vật, từng loại cây rừng có thể làm thuốc - thứ tri thức mà sách vở hiện đại chưa chắc đã chạm đến được.

Khúc hát của bản lĩnh và niềm tin

Nhìn từ góc độ nhân học, lời ru chính là biểu hiện rõ nét nhất của triết lý sống nông nghiệp, gắn bó với thiên nhiên và đề cao mối quan hệ cộng đồng. Người Mường không hát ru để phô diễn kỹ thuật thanh nhạc, mà để sống, để tồn tại, để duy trì dòng mạch văn hóa tổ tiên. Ở góc nhìn phát triển bền vững, hát ru Mường cũng mở ra một hướng đi quan trọng: Phát triển văn hóa dựa trên tri thức bản địa.

Ngày nay, trong bối cảnh hội nhập và phát triển, cùng với quá trình đô thị hóa và tác động mạnh mẽ của mạng xã hội, nhiều giá trị văn hóa truyền thống đang đối mặt với nguy cơ mai một. Hát ru Mường cũng không ngoại lệ. Lớp trẻ ít được nghe, ít hát ru, thậm chí không hiểu lời ru vì khoảng cách thế hệ, vì sự đứt gãy truyền thống văn hóa trong gia đình và cộng đồng. Thế nhưng, vẫn còn đó những tia sáng giữa bản mờ sương.

Một số địa phương vùng cao của tỉnh Thanh Hóa đã có những nỗ lực đưa lời ru vào trường học, vào chương trình sinh hoạt cộng đồng. Các lớp học tiếng Mường, hát dân ca truyền thống được mở ra, mời chính những bà, những mẹ cao tuổi đến dạy lại cho thế hệ trẻ. Một vài nghệ nhân, dù đã ngoài 70 tuổi, vẫn miệt mài đi dạy hát ru. Họ ghi âm, chép lại từng lời ru cổ, đưa vào băng đĩa, lưu trữ kỹ thuật số, tổ chức biểu diễn trong các ngày hội văn hóa dân tộc. “Lúc tôi còn sống, còn nhớ thì còn hát, còn dạy. Mai này mình đi rồi, chỉ mong con cháu vẫn nhớ, vẫn hát, để lời ru còn mãi trong bản mường”, một nghệ nhân bày tỏ.

Dù thế giới có thay đổi bao nhiêu, thì lời ru, với cội rễ sâu xa trong tâm hồn người Việt vẫn sẽ tồn tại. Và lời ru Mường, với âm điệu riêng biệt, với lớp lang tri thức và văn hóa bền bỉ, xứng đáng được đặt vào vị trí trung tâm trong chiến lược bảo tồn di sản văn hóa phi vật thể. Từ cánh võng và tiếng ru, người Mường đã chắp cánh cho những mầm sống đầu đời bằng tình thương, bằng tri thức, bằng cả hồn cốt dân tộc.

NGUYỄN LINH

Nguồn Văn hóa: http://baovanhoa.vn/dan-toc-ton-giao/tu-loi-ru-muong-den-kho-tang-tri-thuc-ban-dia-157550.html
Zalo