Từ khát vọng dựng nước đến giá trị trường tồn
Ngày 2-9-1945, tại Quảng trường Ba Đình lịch sử, sau khi Chủ tịch Hồ Chí Minh trịnh trọng đọc Tuyên ngôn Độc lập khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, Bộ trưởng Bộ Nội vụ Võ Nguyên Giáp đã thay mặt Chính phủ Lâm thời đọc một diễn văn rất đặc biệt.
Nếu Tuyên ngôn Độc lập là lời khẳng định hùng hồn trước toàn thế giới về quyền sống, quyền tự do, quyền bình đẳng và quyền độc lập thiêng liêng của dân tộc Việt Nam, thì bài phát biểu ấy lại mang tính chất như một bản kế hoạch hành động, một cương lĩnh cụ thể hóa khát vọng độc lập thành sức mạnh đoàn kết, và cũng là một lời hiệu triệu để toàn thể nhân dân đồng tâm hiệp lực dựng xây quốc gia non trẻ vừa ra đời. Trải qua tám mươi năm, khi đọc lại văn bản này, ta vẫn thấy trọn vẹn trong từng câu chữ khí thế hào hùng của thời đại, khát vọng kiến tạo của cả một dân tộc, cùng một tầm nhìn sáng suốt mà đến hôm nay vẫn còn nguyên giá trị định hướng cho con đường phát triển của đất nước.
Trong diễn văn ấy, Bộ trưởng Bộ Nội vụ Võ Nguyên Giáp đã khắc họa lại bằng những lời lẽ giản dị mà sâu sắc chặng đường máu lửa của dân tộc để giành lại độc lập. Ông nhắc lại những hy sinh anh dũng của bao lớp tiền nhân đã ngã xuống dưới gót sắt xâm lược, từ pháp trường, trong ngục tù cho đến ngoài mặt trận; nhấn mạnh tinh thần đoàn kết muôn người như một của đồng bào ba miền; và đồng thời khẳng định sức mạnh của xu thế dân chủ toàn cầu sau Chiến tranh thế giới thứ hai, nơi nguyên tắc dân tộc tự quyết đã trở thành tiếng nói chung của thời đại. Ba nguyên nhân ấy, theo ông, chính là gốc rễ để tạo nên thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám - một bản tổng kết ngắn gọn nhưng súc tích, vừa để khẳng định giá trị thành quả vĩ đại của dân tộc, vừa để nhắc nhở muôn đời rằng sức mạnh đích thực của Việt Nam luôn bắt nguồn từ đoàn kết, từ ý chí tự cường, từ niềm tin sắt đá vào lẽ phải và chính nghĩa.

Đại tướng Võ Nguyên Giáp. Ảnh tư liệu
Không dừng lại ở đó, Đại tướng Võ Nguyên Giáp còn đi xa hơn khi khẳng định rằng nền độc lập chỉ thực sự bền vững nếu được đặt trên nền tảng của một thể chế dân chủ. Ông nhấn mạnh: Phải có một chính quyền thống nhất, phải có một Quốc hội do dân trực tiếp bầu ra, và phải có một bản Hiến pháp bảo đảm quyền lợi cho toàn dân. Đó không chỉ là những ý tưởng chính trị trước mắt, mà là tầm nhìn chiến lược lâu dài của một nhà cách mạng đồng thời là một nhà tư tưởng lớn. Trong khoảnh khắc dân tộc bước sang kỷ nguyên độc lập, ông đã gieo vào lòng người dân Việt Nam một nhận thức mới: Tự do không thể tách rời trách nhiệm, độc lập phải đi đôi với xây dựng thể chế dân chủ và pháp quyền. Đây chính là nền móng ban đầu cho Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, đồng thời cũng là di sản tư tưởng mà chúng ta còn tiếp tục kế thừa đến hôm nay.
Điều đặc biệt khiến diễn văn ấy vượt ra khỏi khuôn khổ của một sự kiện chính trị, để trở thành giá trị thời đại, chính là tư tưởng về văn hóa và giáo dục mà Đại tướng Võ Nguyên Giáp nhấn mạnh. Trong bối cảnh đất nước ngổn ngang khó khăn, nạn đói thảm khốc vừa qua đi, ngân khố cạn kiệt, chính quyền còn non trẻ, vậy mà ông vẫn dành nhiều tâm huyết để nói về một nền giáo dục mới và một nền học thuật quốc gia. Ông khẳng định rõ: Bậc sơ học sẽ cưỡng bách, bậc trung học sẽ miễn học phí, học trò nghèo sẽ được cấp học bổng; toàn dân sẽ học chữ quốc ngữ để xóa bỏ nạn mù chữ triệt để. Nhưng giáo dục, theo ông, không chỉ dừng lại ở việc dạy chữ. Nó còn là công cuộc rèn luyện nhân cách, bồi dưỡng đức tính, trang bị năng lực kỹ thuật để con người có thể tham gia tích cực vào đời sống xã hội rộng lớn. Song song với đó, ông bày tỏ khát vọng xây dựng một nền học thuật quốc gia, thiết lập các ban nghiên cứu chuyên ngành, khơi dậy năng lực sáng tạo, đồng thời mạnh mẽ loại bỏ những hủ tục lạc hậu, những văn hóa phản tiến bộ đã kìm hãm bước chân dân tộc.
Nhìn lại hôm nay, ta càng thấm thía rằng những tư tưởng đó không hề cũ kỹ mà vẫn giữ nguyên tính thời sự. Trong kỷ nguyên số, khi tri thức và công nghệ trở thành động lực then chốt, khát vọng “một nền giáo dục thiết thực, chú trọng đức và tài” mà Đại tướng Võ Nguyên Giáp đã nêu ra từ ngày đầu lập quốc vẫn là kim chỉ nam cho mọi chính sách phát triển. Từ phong trào chống nạn mù chữ năm 1945 đến công cuộc chuyển đổi số trong giáo dục hôm nay, tinh thần xuyên suốt vẫn là làm sao để tri thức đến được với mọi người, để không ai bị bỏ lại phía sau. Và trong bối cảnh hội nhập toàn cầu, lời nhắc nhở “nâng cao ý thức quần chúng để biết giữ và dùng quyền tự do dân chủ” càng trở nên sâu sắc: Tự do phải gắn với trách nhiệm, dân chủ phải đi cùng kỷ cương.
Từ những thông điệp vang vọng ở Quảng trường Ba Đình năm ấy, chúng ta có thể soi chiếu vào hiện tại để thấy rõ rằng, muốn đi xa trên con đường phát triển, dân tộc không chỉ cần tiềm lực kinh tế hay sức mạnh quân sự, mà còn cần giữ vững tinh thần đoàn kết, nuôi dưỡng khát vọng học hỏi, bảo vệ bản sắc văn hóa và không ngừng sáng tạo. Độc lập chính trị chỉ thực sự có ý nghĩa khi đi đôi với độc lập về văn hóa, và giáo dục chính là chìa khóa để biến độc lập thành thịnh vượng.

Học sinh Trường Phổ thông liên cấp Phenikaa (Hà Nội) trong giờ Tin học. Ảnh minh họa: qdnd.vn
Đúng tám thập niên đã trôi qua kể từ ngày 2-9-1945, nhưng âm vang của diễn văn ngày Độc lập vẫn còn vang vọng mãi. Nó khiến thế hệ hôm nay hiểu rằng, dựng xây một Việt Nam phồn vinh, hạnh phúc không chỉ là nhiệm vụ của riêng một thế hệ, mà là lời thề son sắt gửi gắm từ cha ông đến con cháu. Dưới ánh sáng của Tuyên ngôn Độc lập và bản diễn văn lịch sử này, chúng ta được nhắc nhở rằng, chỉ cần đồng lòng, trí - lực - tâm hòa làm một, thì dân tộc Việt Nam sẽ luôn đủ sức vượt qua mọi thử thách, hiên ngang bước vào kỷ nguyên mới với niềm tự hào và khát vọng vươn mình mạnh mẽ.
Và chính khi cả nước long trọng kỷ niệm 80 năm Quốc khánh, những thông điệp từ Quảng trường Ba Đình lại bừng sáng trong tâm trí mỗi người Việt Nam. Đất nước bước vào một trang sử mới, với những thay đổi lớn lao về thể chế và tổ chức. Bản đồ hành chính được sắp xếp lại, từ 63 tỉnh, thành còn 34 đơn vị, mô hình chính quyền địa phương hai cấp được triển khai, bộ máy được tinh gọn để trở nên hiệu quả, minh bạch và gần dân hơn. Đây không chỉ là một cải cách kỹ thuật, mà còn là một bước ngoặt lịch sử, phản ánh đúng tinh thần mà Đại tướng Võ Nguyên Giáp từng khẳng định: Chính quyền phải thực sự là ý chí của toàn quốc, chứ không của riêng một tổ chức nào. Tinh thần đoàn kết toàn dân tộc, “Sĩ, Nông, Công, Thương, Binh cùng chung một chí” mà ông nhấn mạnh năm 1945, nay lại trở thành sức mạnh để cả nước đồng lòng trong sự thay đổi mang tính bản lề này.
Trong bối cảnh ấy, những tư tưởng về văn hóa và giáo dục trong diễn văn năm xưa lại càng trở nên có ý nghĩa. Bởi khi giang sơn đã gọn lại, khi bộ máy hành chính được tinh giản, thì điều quyết định vận mệnh tương lai không gì khác ngoài chất lượng con người, ngoài sức mạnh văn hóa và tri thức dân tộc. Việc chăm lo cho giáo dục, khơi dậy tinh thần sáng tạo, nuôi dưỡng khát vọng học hỏi ở thế hệ trẻ - chính là cách để chúng ta trả lời trọn vẹn cho những câu hỏi mà lịch sử đã đặt ra từ năm 1945: Làm thế nào để giữ được độc lập? Làm thế nào để biến độc lập thành phồn vinh?
Kỷ niệm 80 năm Quốc khánh cũng là dịp để chúng ta soi mình vào những lời dặn dò năm xưa: “Trong lúc này, chia rẽ, hoài nghi, lãnh đạm đều là phản quốc”. Thông điệp ấy vẫn nguyên giá trị trong thời đại hội nhập và cạnh tranh khốc liệt hôm nay. Khi đất nước mở cửa sâu rộng, khi chúng ta tham gia những chuỗi giá trị toàn cầu, thì đoàn kết dân tộc, niềm tin vào thể chế và khát vọng phát triển càng phải được giữ vững. Đó là sức mạnh để Việt Nam không chỉ giữ vững độc lập, mà còn khẳng định được vị thế trên trường quốc tế.
Từ Quảng trường Ba Đình năm 1945 đến mùa thu 2025, hành trình ấy đã trọn 80 năm - một vòng đời lịch sử đủ dài để khẳng định rằng, những tư tưởng về độc lập, đoàn kết, văn hóa và giáo dục mà Đại tướng Võ Nguyên Giáp nêu ra vẫn còn nguyên tính chỉ dẫn. Hôm nay, khi giang sơn được sắp xếp tinh gọn, khi cả dân tộc bước vào một kỷ nguyên vươn mình mới, những lời hiệu triệu ấy lại như ngọn lửa soi đường, thôi thúc mỗi người Việt Nam cùng gánh vác trách nhiệm dựng xây Tổ quốc giàu mạnh, văn minh, sánh vai cùng các cường quốc năm châu như Bác Hồ từng mong mỏi.