Tự chủ chiến lược trong kỷ nguyên mới
Dự thảo Báo cáo Chính trị trình Đại hội XIV nhấn mạnh 'tự chủ chiến lược' như một trong các quan điểm chỉ đạo và mục tiêu phát triển then chốt. Điều đó đặt ra câu hỏi: Việt Nam cần tiếp tục làm gì để nâng cao năng lực tự lực, tự cường quốc gia, hướng tới tự chủ chiến lược ngày càng thực chất trong kỷ nguyên mới?

Tổng Bí thư Tô Lâm, Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính và các đại biểu tham quan triển lãm quốc tế về đổi mới sáng tạo với chủ đề “Công nghệ chiến lược - Định hình tương lai Việt Nam” ngày 1/10. (Nguồn: TTXVN)
Năm 2025 chứng kiến nhiều chuyển động khó lường, cho thấy thế giới và khu vực đang bước vào một giai đoạn phức tạp hơn: Cạnh tranh Mỹ - Trung tiếp tục gia tăng với các vòng áp thuế và biện pháp đối ứng liên tục, song đã phần nào hạ nhiệt sau cuộc gặp giữa Tổng thống Mỹ Donald Trump và Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Trung Quốc Tập Cận Bình bên lề Hội nghị APEC vừa qua; cuộc xung đột tại Ukraine chưa có dấu hiệu kết thúc, trong khi một số xung đột mới lại nổ ra; công nghệ, đặc biệt là các lĩnh vực tí tuệ nhân tạo (AI), tự động hóa và điện toán lượng tử có những bước phát triển mới, ngày càng thâm nhập vào đời sống kinh tế - xã hội; biến đổi khí hậu gia tăng sức ép lên an ninh năng lượng, an ninh lương thực và các chuỗi cung ứng.
Thế nào là “tự chủ chiến lược”?
“Tự chủ chiến lược” là cấp độ tự chủ cao nhất mà một quốc gia có thể đạt được. Đạt được “tự chủ chiến lược” đồng nghĩa có khả năng tự hoạch định chiến lược, đưa ra quyết sách và độc lập triển khai chính sách trong mọi vấn đề hệ trọng, ngay cả khi chịu sức ép, lôi kéo hay ràng buộc từ bên ngoài, nhằm bảo đảm tốt nhất lợi ích quốc gia - dân tộc. Theo đuổi “tự chủ chiến lược”, vì vậy, không phải là tự cô lập hay đứng ngoài cuộc, mà là không ngừng thúc đẩy nội lực và quản trị sự gắn kết bên ngoài một cách thông minh, mở rộng “biên độ lựa chọn”, bảo đảm khả năng tự quyết định vận mệnh quốc gia trong mọi hoàn cảnh.
“Tự chủ chiến lược” xây dựng trên ba nền tảng gắn bó chặt chẽ với nhau: Nội lực đủ mạnh – bao gồm thể chế hiệu quả, nguồn nhân lực chất lượng cao, năng lực quốc phòng và công nghệ tiên tiến, cùng nguồn tài chính dồi dào để chủ động ứng phó và thích ứng với môi trường bên ngoài; mạng lưới quan hệ đối ngoại rộng mở, linh hoạt, được đa phương hóa, đa dạng hóa theo hướng cân bằng, hài hòa và đáng tin cậy; và sự kiên định trong nguyên tắc ứng xử quốc tế, cam kết với luật pháp quốc tế, các nỗ lực đóng góp cho các cơ chế đa phương khu vực và toàn cầu.
Trên thực tế, để đạt trạng thái “tự chủ chiến lược”, các quốc gia cần từng bước giảm thiểu phụ thuộc vào bên ngoài, đồng thời chủ động tham gia định hình các khuôn khổ hợp tác và môi trường chiến lược trong và ngoài khu vực. Trong điều kiện cụ thể của Việt Nam, mục tiêu này cần thực hiện một cách thực chất và từng bước, qua việc gia tăng tính tự chủ trong các lĩnh vực trọng yếu, tăng cường kết nối lợi ích với các đối tác chiến lược, thường xuyên rà soát, điều chỉnh chính sách theo hướng mở rộng không gian hành động, nâng cao khả năng chuyển đổi trạng thái linh hoạt trước những biến động, bảo đảm giữ vững định hướng phát triển độc lập, tự chủ trong bối cảnh thế giới ngày càng phức tạp.

Phiên toàn thể thứ tư: “Quản trị các công nghệ mới nổi nhằm đảm bảo an ninh toàn diện” trong khuôn khổ sự kiện Diễn đàn Tương lai ASEAN - ASEAN Future 2025, ngày 26/2.(Ảnh: Tuấn Anh)
Lan tỏa trong đối ngoại
Từ cuối năm 2024 đến nay, Việt Nam đã triển khai đồng bộ nhiều hoạt động đối ngoại nhằm mở rộng không gian chiến lược và làm sâu sắc mạng lưới đối tác. Các đoàn lãnh đạo cấp cao Việt Nam liên tục có các chuyến thăm tới các nước khu vực Nam Á, Trung Đông, châu Đại Dương và châu Âu; đồng thời tiếp đón các đoàn cấp cao từ nhiều nước lớn cùng đối tác chủ chốt đến thăm Việt Nam. Nhiều mối quan hệ song phương được nâng cấp lên Đối tác chiến lược toàn diện (điển hình như với New Zealand, Thái Lan, Indonesia và Anh) và các khuôn khổ hợp tác mới được xúc tiến với EU, Australia và các nước Vùng Vịnh. Việt Nam duy trì sự hài hòa và cân bằng trong quan hệ với các nước lớn, thể hiện qua việc tham gia Hội nghị thượng đỉnh BRICS 2025 tại Brazil với tư cách là đối tác chính thức và tham gia Hội nghị thượng đỉnh Tổ chức Hợp tác Thượng Hải (SCO) với tư cách là khách mời của nước chủ nhà.
Về đa phương, Việt Nam tiếp tục khẳng định vai trò tích cực, chủ động và xây dựng trong các thể chế quốc tế. Việc chủ trì tổ chức thành công hai kỳ Diễn đàn Tương lai ASEAN (AFF) vào tháng 4/2024 và tháng 2/2025 bước đầu đặt nền móng cho một cơ chế đối thoại chiến lược thường niên mới của khu vực, hướng tới tăng cường tiếng nói tập thể và tư duy dài hạn trong hoạch định chính sách. Cùng với việc tái đắc cử vào Hội đồng Nhân quyền Liên hợp quốc nhiệm kỳ 2026-2028, chủ trì Lễ mở ký Công ước Liên hợp quốc về phòng, chống tội phạm mạng (Công ước Hà Nội) và đảm nhiệm vị trí Chủ tịch Hội nghị kiểm điểm Hiệp ước Không phổ biến vũ khí hạt nhân (NPT) vào năm 2026, Việt Nam tích cực mở rộng dư địa chiến lược và tham gia định hình không gian hợp tác đa tầng, không đứng ngoài bất kỳ cấu trúc khu vực nào.
Về quốc phòng – an ninh, Việt Nam từng bước triển khai chiến lược đa dạng hóa đối tác. Việt Nam tăng cường hợp tác thực chất với các nước như Ấn Độ, Israel và Mỹ trong các lĩnh vực phòng thủ ven biển, không gian mạng và huấn luyện gìn giữ hòa bình. Trong khi đó, đối thoại quốc phòng và hợp tác kỹ thuật với Liên bang Nga tiếp tục duy trì ở mức phù hợp, trên tinh thần tôn trọng lẫn nhau và phục vụ lợi ích lâu dài.
Trong lĩnh vực công nghệ và đổi mới sáng tạo, Việt Nam từng bước xây dựng nền tảng tự chủ qua các chương trình phát triển AI, bán dẫn và hạ tầng số, trong đó có Dự án ViGen hợp tác cùng Trung tâm Đổi mới sáng tạo quốc gia (NIC), Meta và nhiều tập đoàn công nghệ quốc tế khác. Cùng với đó, Việt Nam chủ động đón đầu xu thế dịch chuyển chuỗi cung ứng, định vị mình như một trung tâm lắp ráp và thiết kế công nghệ cao trong khu vực. Trong lĩnh vực năng lượng và khí hậu, Việt Nam hoàn tất Kế hoạch huy động nguồn lực cho khuôn khổ Quan hệ đối tác chuyển đổi năng lượng công bằng (JETP), đạt được nhiều cam kết tài trợ cụ thể từ các đối tác châu Âu và châu Á, mở rộng danh mục các dự án chuyển đổi xanh. Tinh thần của ngoại giao chuyên biệt, chuyên ngành ngày càng lan tỏa, phát huy hiệu quả, góp phần thiết thực mở rộng không gian tự chủ trong các lĩnh vực kinh tế - xã hội của đất nước như ngoại giao khoa học công nghệ, ngoại giao khí hậu, ngoại giao an ninh lương thực, ngoại giao nhân lực… Những kết quả này cho thấy, Việt Nam đang chủ động cụ thể hóa khái niệm “tự chủ chiến lược”, không chỉ bằng lời nói, mà bằng hệ thống hành động có định hướng, bài bản và đa tầng.

Ngày thứ hai của Lễ mở ký và Hội nghị cấp cao Công ước Liên hợp quốc (LHQ) về chống tội phạm mạng (Công ước Hà Nội) diễn ra phiên thảo luận cấp cao. Thứ trưởng Thường trực Bộ Ngoại giao Nguyễn Minh Vũ và Thượng tướng Phạm Thế Tùng, Thứ trưởng Bộ Công an đồng chủ trì phiên thảo luận. (Ảnh: Thành Long)
Hướng tới kỷ nguyên mới
Để tiến gần hơn tới mục tiêu “tự chủ chiến lược”, Việt Nam cần tiếp tục lựa chọn có trọng điểm các lĩnh vực ưu tiên, phù hợp với điều kiện thực tế và xu thế phát triển của thế giới. Việc đầu tư dàn trải sẽ khó tạo được năng lực đột phá và lợi thế cạnh tranh. Do đó, cần dành sự quan tâm đặc biệt đến những ngành mang tính nền tảng và hệ thống như công nghệ bán dẫn, trí tuệ nhân tạo, an ninh mạng và hạ tầng số. Đây là những lĩnh vực không chỉ tạo ra động lực tăng trưởng kinh tế - xã hội, mà còn góp phần củng cố năng lực thích ứng và chủ động của quốc gia trong môi trường cạnh tranh chiến lược đang biến đổi nhanh chóng.
Trên mặt trận đối ngoại, việc tiếp tục mở rộng và làm sâu sắc hơn hợp tác với các đối tác có cùng tầm nhìn chiến lược vẫn là hướng đi chủ đạo. Tuy nhiên, cần lồng ghép các tiêu chí thận trọng hơn trong việc tiếp cận một số lĩnh vực nhạy cảm, đặc biệt là những lĩnh vực liên quan dữ liệu, công nghệ lõi hoặc ảnh hưởng dài hạn tới định hướng phát triển. Mục tiêu là làm sao tăng cường đan xen lợi ích, nhưng không làm tổn hại tới năng lực kiểm soát và tự quyết trong những vấn đề hệ trọng đối với lợi ích quốc gia.
Về thể chế, cần từng bước hình thành tư duy quản trị chiến lược xuyên suốt, trong đó mọi quyết định lớn, từ lựa chọn đối tác, định hướng ngành ưu tiên đến mô hình phát triển, đều được soi chiếu qua lăng kính thúc đẩy “tự chủ chiến lược”. Khuyến khích hình thành các cơ chế rà soát định kỳ để đánh giá mức độ phụ thuộc, rủi ro tích tụ, cũng như khả năng thích ứng của hệ thống trong từng giai đoạn là một hướng đi cần được cân nhắc kỹ lưỡng.
Tư duy “tự chủ chiến lược” nên được thẩm thấu sâu hơn vào các lĩnh vực như giáo dục, khoa học, truyền thông và phát triển nguồn nhân lực. Đây là những lĩnh vực ảnh hưởng lớn tới năng lực hoạch định chính sách độc lập về lâu dài. Chuẩn bị một thế hệ cả trong khu vực công và tư có tư duy dài hạn, hiểu biết đa chiều, có khả năng điều hướng trong môi trường phụ thuộc lẫn nhau sẽ là nền tảng để duy trì tự chủ, trong bối cảnh khu vực và thế giới tiếp tục có nhiều biến động khó lường.
































