Từ cánh đồng manh mún đến chuỗi giá trị tỷ đô, lúa gạo Việt cần một cú hích chính sách
Liên kết giữa nông dân và doanh nghiệp không chỉ là câu chuyện kinh tế, mà là con đường sống còn để xây dựng thương hiệu gạo Việt. Nhưng để liên kết bền vững, chính sách phải đủ 'độ mở' và người cầm lái phải đủ thẩm quyền.
Trao đổi cùng VnBusiness bên lề Hội nghị sơ kết 6 năm thực hiện Nghị định 98/2018/NĐ-CP của Chính phủ về chính sách khuyến khích phát triển hợp tác, liên kết trong sản xuất và tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp (Nghị định 98), ông Phạm Thái Bình - Chủ tịch HĐQT Công ty Cổ phần Nông nghiệp Công nghệ cao Trung An, khẳng định: “Nếu không gỡ nút thắt pháp lý, chúng ta sẽ không thể có những cánh đồng lớn, những thương hiệu gạo mạnh thực sự.”

Ông Phạm Thái Bình - Chủ tịch HĐQT Công ty Cổ phần Nông nghiệp Công nghệ cao Trung An.
Khi cả nông dân và doanh nghiệp đều mong muốn hợp tác để sản xuất và tiêu thụ sản phẩm, vì sao trên thực tế mô hình này vẫn gặp nhiều trở ngại, thưa ông? Phải chăng vấn đề nằm ở tư duy quản lý hay ở cơ chế phối hợp thực hiện?
Đối với Trung An, là DN hoạt động trong lĩnh vực lúa gạo, chúng tôi nhận thấy liên kết giữa sản xuất và tiêu thụ chính là yếu tố sống còn. Chỉ khi nông dân và doanh nghiệp gắn bó với nhau trong cùng một chuỗi giá trị thì sản xuất mới gắn với nhu cầu thực tế của thị trường, mới tạo ra sản phẩm có giá trị và thương hiệu bền vững cho nông sản Việt Nam nói chung và của lúa gạo nói riêng.
Thực tế 6 năm qua cho thấy ngành lúa gạo Việt Nam đã có bước phát triển ngoạn mục. Nếu trước đây, chúng ta chỉ tập trung vào số lượng thì nay, Việt Nam đã xuất khẩu những dòng gạo chất lượng cao, đáp ứng tiêu chuẩn quốc tế về an toàn thực phẩm. Thành quả đó phần lớn đến từ sự liên kết sản xuất theo Nghị định 98, góp phần nâng tầm giá trị của gạo Việt trên bản đồ thế giới.
Tuy nhiên, tôi cho rằng nút thắt lớn nhất hiện nay vẫn nằm ở cơ chế và chính sách thực thi. Nông dân rất muốn có liên kết để sản xuất theo kế hoạch; doanh nghiệp cũng cần liên kết để tiêu thụ hàng hóa theo kế hoạch. Nhưng khi họ muốn làm thì lại gặp rào cản về thủ tục, về phê duyệt, về tính pháp lý trong mở rộng vùng nguyên liệu.
Chẳng hạn, nhiều dự án hay mô hình liên kết bị “vướng” ngay từ khâu phê duyệt của cơ quan quản lý, khiến chuỗi hợp tác dễ đổ vỡ trước khi bắt đầu. Đó là điều rất đáng tiếc.
Tôi cho rằng, muốn tháo gỡ triệt để, Nhà nước cần thay đổi cả về nhận thức, cơ chế và cách làm. Phải có sự đồng bộ giữa các cơ quan quản lý, tạo hành lang pháp lý thực sự khuyến khích doanh nghiệp và nông dân cùng tham gia chuỗi giá trị. Khi đó, liên kết mới có thể nhân rộng, trở thành nền tảng phát triển nông nghiệp bền vững và nâng cao thu nhập cho cả hai phía.
Theo ông, đâu là rào cản lớn nhất khiến doanh nghiệp dù muốn đầu tư liên kết sản xuất với nông dân vẫn gặp khó khăn trong triển khai?
Như tôi đã nói, doanh nghiệp hiện nay rất cần có một cơ quan quản lý nhà nước. Cơ quan đó có đủ thẩm quyền, tính pháp lý để phê duyệt dự án hoặc các phương án từ các liên kết giữa DN và nông dân.
Nghị định 98 chính là sự liên kết gắn sản xuất với tiêu thụ giữa doanh nghiệp với nông dân, giúp xây dựng vùng nguyên liệu lớn để từ sản xuất manh mún nhỏ lẻ trở thành sản xuất lớn mang tính hàng hóa có thương hiệu cao. Chúng ta phải có dự án, mà dự án này thì phải có cơ quan quản lý nhà nước phê duyệt để doanh nghiệp với nông dân, với HTX có cơ sở để liên kết với nhau và giúp doanh nghiệp có cơ sở để họ đầu tư.
Bên cạnh đó, khi đã liên kết sản xuất thì DN và HTX họ rất cần vốn. Đây là một vấn đề cốt lõi của vấn đề liên kết. Trong khi đó, nếu chúng ta không có dự án thì ngân hàng cũng không có cơ sở để xem xét cho doanh nghiệp và nông dân vay vốn. Đây là vấn đề rất quan trọng, đó là tính pháp lý phê duyệt dự án của các cấp có thẩm quyền. Đặc biệt, cần có sự đồng nhất trên cả nước, chấm dứt tình trạng mỗi tỉnh mỗi địa phương lại có nội dung chỉ đạo khác nhau.
Ông đã nhấn mạnh rằng giá trị và thương hiệu gạo Việt chỉ có thể bắt đầu từ cánh đồng liên kết. Vậy theo ông, điều gì đang khiến mối liên kết giữa doanh nghiệp và nông dân chưa thực sự bền vững như kỳ vọng?
Tôi cho rằng tất cả các giá trị của lúa gạo đều là một, việc xây dựng thương hiệu gạo có mạnh hay không phải xuất phát từ cánh đồng liên kết. Các giá trị đó không thể xuất phát từ các mô hình sản xuất manh mún nhỏ lẻ được.
Chúng ta có liên kết sản xuất, có người nông dân với doanh nghiệp liên kết với nhau, tức là sản xuất theo quy trình của doanh nghiệp thì mới nâng cao được giá trị và thương hiệu của sản phẩm nông nghiệp đó. Ngược lại, nếu chúng ta vẫn sản xuất manh mún nhỏ lẻ và tự phát thì không bao giờ nâng cao được cái giá trị và thương hiệu của gạo Việt Nam.
Nông Dân và doanh nghiệp là 2 chủ thể chính trong chuỗi liên kết này, họ luôn và sẵn sàng và rất muốn làm. Những điều khiến họ gặp trở ngại, đến nay vẫn là những quy định, thủ tục của các cơ quan quản lý nhà nước.
Ví dụ, chúng tôi và những người nông dân đã sẵn sàng và lập dự án rồi nhưng không có ai phê duyệt dự án, nghĩa là không đảm bảo cơ sở pháp lý thì làm sao chúng tôi dám triển khai đầu tư. Đó là một việc rất đơn giản, nhưng đến nay cơ quan quản lý nhà nước vẫn chưa làm được.
Nghị định 98 được xem là bước khởi đầu mang tính khuyến khích, trong khi Đề án 1 triệu ha đã nâng lên tầm pháp lý cao hơn. Theo ông, sự chuyển biến này đang tạo ra cơ hội như thế nào cho doanh nghiệp trong việc mở rộng vùng nguyên liệu và đầu tư sản xuất lúa gạo bền vững?
Tôi cho rằng các đề án của Bộ NN&MT triển khai từ năm 2022 đã mang lại kết quả rất rõ rệt. Riêng ở vùng Tứ Giác Long Xuyên, hai dự án thí điểm được thực hiện đã giúp hình thành và củng cố các mô hình liên kết hiệu quả. Doanh nghiệp chúng tôi hiện đã có vùng nguyên liệu quy mô hàng nghìn héc-ta, được duy trì liên tục suốt bốn năm qua.
Điều quan trọng là vùng nguyên liệu này đã gắn chặt giữa Nghị định 98 và Đề án 1 triệu ha, tạo nền tảng pháp lý và cơ chế hỗ trợ ổn định. Trung An hiện cung cấp toàn bộ vật tư đầu vào cho nông dân – từ giống, phân bón, thuốc bảo vệ thực vật, đến dịch vụ cơ giới hóa và tạm ứng vốn. Mô hình này giúp nông dân yên tâm sản xuất, doanh nghiệp có nguồn nguyên liệu đồng nhất và chất lượng cao.
Kết quả là Trung An đã trở thành một trong những doanh nghiệp đầu tiên của Việt Nam xuất khẩu 500 tấn gạo giảm phát thải sang thị trường Nhật Bản. Đây không chỉ là thành công thương mại mà còn là minh chứng cho hiệu quả của mô hình liên kết gắn với phát triển xanh.
Tôi tin rằng khi Đề án 1 triệu ha được triển khai rộng rãi, ngành lúa gạo Việt Nam sẽ có bước phát triển ngoạn mục, chuyển từ “nhiều về lượng” sang “mạnh về chất”, nâng tầm vị thế gạo Việt trên thị trường thế giới.
Xin trân trọng cảm ơn ông!
Hồng Hương thực hiện





























