Trường Đại học An Giang (ĐHQG TP.HCM): Số đề tài nghiên cứu tăng mạnh nhưng thu từ KHCN còn hạn chế
Năm 2024, nguồn thu từ khoa học và công nghệ của Trường Đại học An Giang (ĐHQG TP.HCM) là 17,048 tỷ đồng; chiếm 4,5% trên tổng nguồn thu.
Trường Đại học An Giang - Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh được thành lập theo Quyết định số 241/1999/QĐ-TTg ngày 30/12/1999 của Thủ tướng Chính phủ trên cơ sở Trường Cao đẳng Sư phạm An Giang và khai giảng năm học đầu tiên ngày 09/9/2000. Từ ngày 13/8/2019, trường trở thành trường đại học thành viên của Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh theo Quyết định số 1007/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ. [1]
Theo thông tin đăng tải trên website, sứ mạng của trường là trở thành trung tâm đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao, nghiên cứu khoa học và chuyển giao công nghệ có uy tín; đóng góp hiệu quả vào sự phát triển kinh tế và tiến bộ xã hội, góp phần thực hiện sứ mệnh của Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh ở khu vực Đồng bằng sông Cửu Long.
Nhà trường được cấp phép đào tạo 1 ngành trình độ tiến sĩ, 6 ngành trình độ thạc sĩ và 42 ngành trình độ đại học. Hiện, Tiến sĩ Nguyễn Hữu Trí là Phó Hiệu trưởng phụ trách nhà trường; Phó Giáo sư, Tiến sĩ Trần Văn Đạt là Chủ tịch Hội đồng trường.
Số bài báo và nghiên cứu khoa học tăng trưởng đột biến so với năm trước
Tiêu chí 6.2, Thông tư 01/2024/TT-BGDĐT về Chuẩn cơ sở giáo dục đại học quy định: Số lượng công bố khoa học và công nghệ tính bình quân trên một giảng viên toàn thời gian không thấp hơn 0,3 bài/năm; riêng đối với cơ sở giáo dục đại học có đào tạo tiến sĩ không phải trường đào tạo ngành đặc thù không thấp hơn 0,6 bài/năm trong đó số bài có trong danh mục Web of Science hoặc Scopus (có tính trọng số theo lĩnh vực) không thấp hơn 0,3 bài/năm.
Theo bảng Các chỉ số đánh giá về hoạt động khoa học và công nghệ tại Báo cáo thường niên năm 2024 của Trường Đại học An Giang - Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh cho thấy, số công bố khoa học/giảng viên của trường là 1,84 bài/năm; số công bố WoS, Scopus/ giảng viên là 0,45 bài/năm. Các số liệu này đạt Chuẩn và có dấu hiệu tăng khoảng từ 0,11-0,77 bài/năm so với năm 2023.
Đồng thời, trong năm 2024, nhà trường có tổng 132 đề tài nghiên cứu khoa học; trong đó có 1 đề tài nghiên cứu khoa học cấp Nhà nước; 71 đề tài cấp bộ, tỉnh; 50 đề tài cấp cơ sở; 5 đề tài hợp tác doanh nghiệp trong nước và 5 đề tài hợp tác quốc tế.
Tổng số bài báo khoa học được Hội đồng Giáo sư nhà nước công nhận không nằm trong danh mục WoS, Scopus và bằng độc quyền giải pháp hữu ích là 245 bài; có 139 công bố WoS, Scopus ở tất cả các lĩnh vực, trong đó có 1 công bố thuộc Viện Biến đổi khí hậu - Trường Đại học An Giang - Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh; 63 sách chuyên khảo, số tác phẩm nghệ thuật và thành tích thể dục thể thao đạt giải thưởng quốc gia, quốc tế.
Cùng với đó, tỉ trọng thu khoa học- công nghệ của trường đạt 5,79%, gấp 4.11 lần so với năm 2023.

Số đề tài nghiên cứu khoa học cấp Bộ, tỉnh và cấp cơ sở của Trường Đại học An Giang - Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh có sự tăng trưởng mạnh, gấp hơn 2 lần so với năm 2023. Biểu đồ: An Vy.
Chia sẻ về kinh nghiệm trong việc nâng cao chất lượng và số lượng đề tài nghiên cứu khoa học, đại diện nhà trường cho biết: Trường Đại học An Giang - Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh xác định nghiên cứu khoa học là nhiệm vụ trọng tâm, luôn quan tâm triển khai nhiều giải pháp đồng bộ để nâng cao chất lượng và số lượng đề tài nghiên cứu khoa học. Trong đó, bao gồm các cơ chế khuyến khích, hỗ trợ dành cho giảng viên tham gia nghiên cứu khoa học.
Nhà trường xác định công bố khoa học, đặc biệt công bố quốc tế là nhiệm vụ thường xuyên của giảng viên, trực tiếp góp phần nâng cao năng lực giảng dạy, nghiên cứu và uy tín học thuật của trường. Mục tiêu này được cụ thể hóa đến từng khoa và từng giảng viên, lồng ghép vào chỉ tiêu đánh giá kết quả công việc (KPIs) hằng năm; kết quả được quy đổi giờ chuẩn nghiên cứu khoa học minh bạch và khen thưởng theo chất lượng đầu ra, ưu tiên bài báo trên WoS/Scopus (Q1-Q4) và ấn phẩm của nhà xuất bản uy tín. Cơ chế này tạo động lực rõ rệt, khuyến khích giảng viên chủ động xây dựng kế hoạch nghiên cứu.
Về nguồn lực, trường bố trí kinh phí hỗ trợ thực hiện đề tài theo quy định hiện hành và xác định bài báo khoa học, đặc biệt công bố quốc tế là sản phẩm đầu ra trọng tâm của nhiệm vụ nghiên cứu khoa học. Kinh phí được phân bổ dựa trên nội dung, tiến độ và chất lượng ấn phẩm dự kiến; kết quả đạt chuẩn được khen thưởng theo chất lượng.
Về việc liên kết và đặt hàng nghiên cứu, trường ưu tiên triển khai các đề tài liên ngành, liên trường trong hệ thống Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh và bám sát nhu cầu phát triển bền vững của vùng Đồng bằng sông Cửu Long như: nông nghiệp thông minh, biến đổi khí hậu, quản lý tài nguyên, giáo dục, văn hóa, du lịch... Những nhiệm vụ có tính ứng dụng cao, được địa phương hoặc doanh nghiệp đặt hàng và có kế hoạch công bố WoS/Scopus được ưu tiên xét chọn.
Về phát triển năng lực nghiên cứu, trường thường xuyên tổ chức các khóa bồi dưỡng phương pháp nghiên cứu, phân tích dữ liệu, xây dựng đề cương nghiên cứu, viết học thuật và chiến lược công bố quốc tế dành cho giảng viên. Đồng thời tổ chức hội thảo, hội nghị chia sẻ kinh nghiệm, hình thành nhóm nghiên cứu và mở rộng hợp tác.
Nhà trường cũng thành lập bộ phận Hỗ trợ công bố quốc tế đồng hành với giảng viên trong việc định vị chủ đề, rà soát bản thảo, chuẩn bị hồ sơ và chọn kênh công bố phù hợp; đồng thời khuyến khích học viên cao học, sinh viên cùng tham gia thực hiện đề tài và công bố khoa học với giảng viên.
Hạ tầng phục vụ nghiên cứu được đầu tư và nâng cấp đồng bộ gồm phòng thí nghiệm, thiết bị, phần mềm chuyên dụng; thư viện số và kho dữ liệu mở. Quy trình xuất bản nội bộ qua Tạp chí Khoa học Quốc tế AGU được chuẩn hóa nhằm lan tỏa kết quả nghiên cứu và củng cố chuẩn mực học thuật.
Nhà trường luôn coi trọng liêm chính học thuật, thường xuyên tọa đàm về đạo đức nghiên cứu, sử dụng phần mềm Turnitin để phòng chống đạo văn, tập huấn hướng dẫn sử dụng AI có trách nhiệm. Các thủ tục nghiên cứu khoa học từ ký kết hợp đồng, nghiệm thu, thanh quyết toán đến bảo hộ sở hữu trí tuệ được số hóa từng bước, rút ngắn thời gian xử lý và nâng cao tính minh bạch.
Trường Đại học An Giang - Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh đã triển khai hệ giải pháp đồng bộ, mang lại hiệu quả thiết thực. Qua kết quả đó, nhà trường sẽ tiếp tục củng cố, mở rộng hợp tác học thuật, gắn kết chặt chẽ nghiên cứu với đào tạo và phục vụ cộng đồng, đóng góp thiết thực cho đổi mới sáng tạo và phát triển bền vững của Đồng bằng sông Cửu Long và cả nước.
Nguồn thu từ khoa học công nghệ còn hạn chế dù tỉ trọng tăng
Thông tư 01/2024/TT-BGDĐT quy định: Cơ sở giáo dục đại học duy trì được cân đối tài chính, hiệu quả hoạt động và khả năng phát triển bền vững.
Tiêu chí 4.1. Biên độ hoạt động, được xác định bằng chênh lệch thu chi trên tổng thu, tính trung bình 3 năm gần nhất nằm trong phạm vi từ 0% đến 30%.
Tiêu chí 4.2. Chỉ số tăng trưởng bền vững, được xác định bằng trung bình cộng tốc độ tăng tổng thu và tốc độ tăng phần thu ngoài học phí, ngoài ngân sách Nhà nước/nhà đầu tư hỗ trợ chi thường xuyên trong 3 năm gần nhất, không âm.
Về kết quả tài chính, Báo cáo thường niên năm 2024 cho thấy, biên độ hoạt động trung bình 3 năm của Trường Đại học An Giang - Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh đạt 21%; chỉ số tăng trưởng bền vững đạt 20,68%.
Năm 2024, tổng thu hoạt động của nhà trường là 376,416 tỷ đồng. Trong đó, nguồn thu từ học phí, lệ phí từ người học là 99,031 tỷ đồng; chiếm 26,3% trên tổng nguồn thu.
Nguồn thu từ khoa học và công nghệ là 17,048 tỷ đồng; trong đó có 14,530 tỷ đồng từ hợp đồng, tài trợ từ ngân sách Nhà nước và 2,518 tỷ đồng từ hợp đồng, tài trợ từ bên ngoài. Nguồn thu từ khoa học và công nghệ chiếm 4,5% trên tổng nguồn thu.
Có thể thấy, mặc dù số đề tài nghiên cứu khoa học và bài báo khoa học của Trường Đại học An Giang - Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh tăng trưởng mạnh mẽ nhưng nguồn thu từ khoa học công nghệ còn hạn chế, nguồn thu từ học phí chiếm tỷ trọng cao.

Nguồn thu từ khoa học và công nghệ năm 2024 chiếm 4,5% trên tổng thu hoạt động của Trường Đại học An Giang - Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh. Ảnh chụp màn hình.
Chia sẻ về những nguyên nhân dẫn đến việc nguồn thu từ học phí chiếm tỷ trọng lớn, trong khi các nguồn thu khác còn khá hạn chế, đại diện nhà trường cho biết: Theo báo cáo của đơn vị chuyên môn, nếu không tính các đơn vị sự nghiệp trực thuộc trường thì tỷ lệ thu học phí chiếm 87% trên tổng nguồn thu sự nghiệp (124,093 tỷ đồng), còn lại 13% là nguồn thu khác (18,739 tỷ đồng). Đây cũng là tình hình chung của hầu hết các cơ sở giáo dục đại học tại Việt Nam.
Một số nguyên nhân dẫn đến nguồn thu khác còn khá hạn chế có thể kể đến như là sau thời điểm bị ảnh hưởng nghiêm trọng bởi dịch Covid-19 (năm 2021 và 2022), các hoạt động tạo nguồn thu ngoài học phí của trường đã dần hồi phục nhưng vẫn chiếm tỷ trọng thấp so với kỳ vọng do tình hình kinh tế - xã hội vẫn còn gặp nhiều khó khăn, các nguồn tài trợ, viện trợ vì thế cũng bị ảnh hưởng.
Ngoài ra, cơ chế khuyến khích giảng viên tham gia các hoạt động chuyển giao công nghệ và hợp tác với các địa phương, doanh nghiệp còn nhiều vướng mắc. Đồng thời, do đến nay, Trường Đại học An Giang - Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh vẫn là đơn vị tự chủ một phần kinh phí chi thường xuyên nên chưa thể đẩy mạnh các hoạt động cho thuê cơ sở vật chất và các dịch vụ tiện ích cho viên chức và sinh viên, học sinh để tăng nguồn thu.
Tài liệu tham khảo:
[1] https://www.agu.edu.vn/vi/gioi-thieu/tong-quan-ve-truong-dai-hoc-an-giang