Trước thách thức tỷ lệ tín dụng/GDP liên tục tăng cao
Một nền kinh tế có quy mô dư nợ tín dụng ngày càng vượt xa so với tổng giá trị sản phẩm có thể tạo ra mỗi năm, đồng nghĩa với gánh nặng nợ của các hộ gia đình/doanh nghiệp trong quốc gia đó đang tăng lên.
Khi đó, trước áp lực trả lãi và nợ vay ngày càng gia tăng, các thực thể trong nền kinh tế buộc phải giảm tiêu dùng và đầu tư, khả năng vay vốn dần bị hạn chế, tất yếu ảnh hưởng đến các động lực tăng trưởng kinh tế.

Dòng vốn dễ dãi sẽ ưu tiên lựa chọn các ngành có tài sản thế chấp dễ định giá như bất động sản, hơn là khu vực đổi mới sáng tạo. Ảnh: LÊ VŨ
Rủi ro gì?
134% là tỷ lệ tín dụng/GDP của Việt Nam tính đến cuối năm 2024, với quy mô dư nợ tuyệt đối của toàn nền kinh tế đã đạt hơn 15,6 triệu tỉ đồng. Tỷ lệ này đã liên tục tăng trong những năm qua, khi tốc độ tăng trưởng tín dụng thường duy trì cao gấp đôi mức tăng trưởng GDP. Ngân hàng Thế giới từng cảnh báo tỷ lệ này ở mức cao, còn giới phân tích cho rằng nếu tỷ lệ này tiếp tục tăng sẽ tiềm ẩn rủi ro cho hệ thống ngân hàng và gây hệ lụy cho nền kinh tế.
Nếu dòng vốn tín dụng liên tục tăng mạnh nhưng không được hấp thụ tốt ở khu vực sản xuất, ắt sẽ chạy vào các kênh đầu tư như chứng khoán hay bất động sản, đẩy giá các tài sản này vượt xa giá trị nội tại, tiềm ẩn rủi ro bong bóng tài sản. Một khi lãi suất đảo chiều và đi lên trở lại, các kênh đầu tư này sẽ chịu ảnh hưởng đầu tiên và có thể sụp đổ, kéo theo rủi ro vỡ nợ và đẩy nền kinh tế chung vào khó khăn. Trong khi đó, với mức độ hội nhập sâu rộng, xu hướng lãi suất trong nước hiện nay ngày càng chịu tác động nhiều hơn bởi bối cảnh kinh tế toàn cầu và chính sách tiền tệ của các ngân hàng trung ương lớn trên thế giới.
Một nền kinh tế có quy mô dư nợ tín dụng ngày càng vượt xa so với tổng giá trị sản phẩm có thể tạo ra mỗi năm, đồng nghĩa với gánh nặng nợ của các hộ gia đình/doanh nghiệp trong quốc gia đó đang tăng lên. Khi đó, trước áp lực trả lãi và nợ vay ngày càng gia tăng, các thực thể trong nền kinh tế buộc phải giảm tiêu dùng và đầu tư, khả năng vay vốn dần bị hạn chế, tất yếu ảnh hưởng đến các động lực tăng trưởng kinh tế.
Về phía các ngân hàng, với dư địa tăng trưởng tín dụng rộng mở, cộng thêm áp lực “làm đẹp” bảng cân đối tài sản và tốc độ phát triển, nhưng cầu vốn ở khu vực sản xuất phần nào bị hạn chế, các ngân hàng có thể đẩy dòng vốn cho vay vào các phân khúc rủi ro cao với biên lợi nhuận hấp dẫn hơn. Tuy nhiên, rủi ro nợ xấu cũng sẽ tăng sau mỗi chu kỳ bùng nổ của nền kinh tế và các thị trường tài sản - điều thực tế đã xảy ra trong thời gian qua.
Đó là chưa nói đến việc dòng vốn dễ dãi sẽ ưu tiên lựa chọn các ngành có tài sản thế chấp dễ định giá như bất động sản, hơn là khu vực đổi mới sáng tạo, kéo giảm năng suất của nền kinh tế về dài hạn. Việc tỷ trọng dư nợ tín dụng dành cho các lĩnh vực doanh nghiệp ứng dụng công nghệ cao ở mức thấp dù nhà điều hành đã có nhiều chính sách khuyến khích và thúc đẩy thời gian qua, trong khi tài sản thế chấp tại các ngân hàng hiện nay vẫn chủ yếu là bất động sản, là minh chứng rõ nhất cho thấy dòng vốn đang dành ưu tiên khu vực nào.
Đứng ở góc độ cơ quan quản lý, việc nền kinh tế phụ thuộc vào đòn bẩy tín dụng quá cao sẽ dẫn đến những ràng buộc cho chính sách tiền tệ. Cụ thể, trong trường hợp lạm phát leo thang trở lại, Ngân hàng Nhà nước (NHNN) sẽ gặp khó khăn trong việc tăng lãi suất để kiềm chế lạm phát, vì điều đó sẽ càng làm gia tăng gánh nặng nợ cho các doanh nghiệp và hộ gia đình, kéo theo rủi ro vỡ nợ của hệ thống. Khi đó, Nhà nước thường phải ra tay hỗ trợ tái cấp vốn hoặc tái cơ cấu ngân hàng, chuyển nợ tư sang nợ công, dẫn đến những rủi ro tài khóa.
Giải pháp ứng phó
Bài nghiên cứu “Too much Finance” của Jean-Louis Arcand, Enrico Berkes và Ugo Panizza(1) chỉ ra rằng khi tín dụng cho khu vực tư nhân đạt 100% GDP, tác động đến tăng trưởng kinh tế sẽ trở nên tiêu cực. Cụ thể, tăng trưởng tín dụng nhanh chóng có thể làm tăng biến động kinh tế vĩ mô hoặc dẫn đến khủng hoảng tài chính và ngân hàng, cũng như có thể dẫn đến việc phân bổ nguồn lực sai lệch.
Quá khứ cũng cho thấy không ít bài học cảnh báo khi quy mô dư nợ vượt xa năng lực sản xuất của nền kinh tế. Đơn cử như Trung Quốc, tỷ lệ dư nợ tín dụng/GDP của nền kinh tế lớn thứ 2 thế giới tăng từ 106% vào năm 2008 lên 195% vào năm 2020, khiến các cơ quan quản lý phải thực hiện các biện pháp kiểm soát tín dụng đối với lĩnh vực bất động sản. Hệ quả sau đó là hàng loạt tập đoàn bất động sản lớn như Evergrande hay Country Garden rơi vào tình thế vỡ nợ. Đến cuối năm 2024, tỷ lệ này của Trung Quốc vẫn lên tới 198%.
Hay như tại Mỹ, tỷ lệ tín dụng/GDP năm 2007 lên đến 206%, sau nhiều năm duy trì chính sách lãi suất siêu thấp và thúc đẩy các hoạt động cho vay thế chấp dưới chuẩn bùng nổ. Hệ quả là một cuộc khủng hoảng thị trường nhà đất tại nước này đã kéo nền kinh tế toàn cầu rơi vào cuộc khủng hoảng tài chính nghiêm trọng nhất kể từ cuộc đại suy thoái thập niên 30.
Để đảm bảo an toàn và sự phát triển ổn định cho nền kinh tế, kiểm soát tăng trưởng tín dụng tổng thể trong nền kinh tế là điều cần thiết. NHNN những năm gần đây đã quy định áp dụng các chuẩn mực an toàn mới theo chuẩn quốc tế Basel II rồi Basel III, theo đó các ngân hàng phải liên tục tăng vốn để tăng cường bộ đệm dự phòng.
Với tỷ lệ an toàn vốn (CAR), NHNN đã liên tục nâng cao theo tiêu chuẩn mới. Các ngân hàng muốn tăng trưởng tín dụng cao hơn phải đáp ứng hệ số CAR này.
Bên cạnh đó, việc quy định các tỷ lệ an toàn như dư nợ tín dụng/huy động vốn, tỷ lệ sử dụng vốn ngắn hạn cho vay trung, dài hạn phải giảm theo lộ trình, cũng là cách nhằm đảm bảo tín dụng không tăng trưởng quá nóng so với quy mô nguồn vốn đầu vào của các ngân hàng.
Ngoài ra, việc NHNN vẫn duy trì hạn mức tăng trưởng tín dụng tổng thể hàng năm cũng như chỉ tiêu tăng trưởng tín dụng phân bổ cho các ngân hàng là điều có thể hiểu được, nhằm hạn chế việc các ngân hàng đua tranh phát triển tín dụng bằng mọi giá để đẩy quy mô tăng nhanh nhất có thể. Cũng cần lưu ý rằng dù đã kiểm soát mục tiêu tăng trưởng tín dụng hàng năm, nhưng tốc độ tăng trưởng tín dụng các năm gần đây luôn gấp đôi tốc độ tăng trưởng GDP như đã nói, do đó tỷ lệ dư nợ tín dụng/GDP có khả năng sẽ còn tiếp tục tăng.
Đối với các nền kinh tế khác, để kiềm chế chu kỳ tăng trưởng tín dụng và ổn định hệ thống tài chính, các ngân hàng trung ương thường giám sát thêm chỉ số CcyB (Counter-cyclical Capital Buffer - Vốn đệm chống chu kỳ), theo đó buộc các ngân hàng phải tích lũy thêm vốn khi tín dụng bùng nổ để hấp thụ thua lỗ khi chu kỳ đảo chiều. Tỷ lệ này cũng giúp ngăn chặn hiện tượng cho vay quá mức trong thời kỳ bùng nổ, từ đó hạn chế bong bóng tài sản, cũng như khuyến khích ngân hàng thận trọng hơn khi cấp tín dụng. Cụ thể, nếu CCyB được đặt ở mức 1%, một ngân hàng có tổng tài sản rủi ro 100 tỉ đô la Mỹ phải dự trữ thêm 1 tỉ đô la Mỹ vốn đệm.
Ngân hàng trung ương cũng có thể giám sát tỷ lệ LTV (Loan to Value ratio - Tỷ lệ cho vay trên giá trị tài sản bảo đảm), nhằm bảo vệ khoản vay khỏi rủi ro giá tài sản thế chấp giảm, hạn chế rủi ro tổn thất cho ngân hàng. Việt Nam hiện chưa có quy định chính thức về việc này, các ngân hàng thường áp dụng mức 70-80%. Tuy nhiên, trong các chu kỳ thị trường tài sản bùng nổ, cần kiểm soát tỷ lệ LTV chặt hơn. Cuối cùng, tỷ lệ DTI (Debt to Income - Nợ/thu nhập) cũng có thể được sử dụng, nhằm kiểm soát khả năng trả nợ của hộ gia đình/doanh nghiệp, ngăn “bẫy thu nhập” khi thu nhập không đủ gánh lãi và gốc.
(1) https://www.imf.org/en/Publications/WP/Issues/2016/12/31/Too-Much-Finance-26011