Triều Nguyễn trị tội làm vàng bạc giả ra sao?

Không chỉ thiết lập hệ thống in dấu, giám định và đăng ký vàng bạc để ngăn ngừa gian lận, giả mạo, triều Nguyễn còn xử rất nặng những hành vi gian dối, bớt xén, hoặc pha trộn kim loại khác vào.

 Vàng miếng từ kho bạc Huế. Ảnh: sciencesetavenir/11conti-monnaie de Paris.

Vàng miếng từ kho bạc Huế. Ảnh: sciencesetavenir/11conti-monnaie de Paris.

Triều Nguyễn rất coi trọng vàng bạc; các loại vàng, bạc được triều đình đúc thành nén, in dấu, kiểm định độ tuổi, dùng trong việc trả lương, thưởng quan lại, hoặc phong tặng. Chính vì thế, giả mạo vàng bạc hay tự ý pha chế kim loại quý bị xem là hành vi xâm phạm trực tiếp đến uy tín và quyền kiểm soát tiền tệ của triều đình - tức là phạm vào “phép nước”, ngang hàng với tội phản nghịch trong lĩnh vực kinh tế.

Ngăn dòng kim loại quý chảy ra ngoài

Từ rất sớm, ý thức rằng vàng bạc là loại tài sản chiến lược, cần kiểm soát chặt chẽ lưu thông trong và ngoài nước, triều Nguyễn đã cấm mua bán tự do, đặc biệt với thương nhân ngoại quốc, nhằm ngăn dòng kim loại quý chảy ra ngoài, bảo đảm ổn định giá trị tiền tệ nội địa.

Sách Đại Nam thực lục cho biết năm Gia Long thứ 2 (1803), triều đình đã ban điều cấm thuyền buôn nước ngoài mua riêng vàng bạc hoặc chở trộm tiền đồng. Ai vi phạm sẽ bị tịch thu toàn bộ tang vật, sung công, còn người bán vàng bạc cho họ thì bị phạt đồ (tức là sung làm lính khổ sai).

Năm Minh Mệnh thứ 19 [1838], nhận thấy lượng vàng bạc trong nước ngày càng giảm, giá trị tăng cao, nguyên do là dân gian chôn giấu hoặc buôn bán với thương nhân ngoại quốc, vua đã dụ rằng: “Tiền của như nước suối, nên lưu thông mà không nên ứ đọng... để của cho con cháu chôn vàng là ngu quá ư?”.

Từ đó, vua ban lệnh cấm chôn giấu vàng bạc, cấm buôn bán vàng bạc với người nước ngoài, trừ một số loại bạc “Phiên” đã đúc thành tiền. Người vi phạm bị đánh 100 trượng, tịch thu toàn bộ tài sản, và thưởng một nửa cho người tố cáo.

Sang năm Minh Mệnh 20 [1839], lệnh cấm được mở rộng đến đường bộ, đồn biên giới, không chỉ áp dụng cho thuyền buôn. Người nước Thanh mang vàng bạc ra khỏi nước trên 50 lạng bị xử tội nặng, trên 120 lạng thì xử giảo giam hậu (thắt cổ giam chờ thi hành). Tang vật bị sung công, một nửa lại thưởng cho người bắt giữ.

Năm Tự Đức thứ 34 [1881], triều đình ra lệnh cấm nhập cảng tiền đồng dị dạng và xuất cảng vàng bạc. Người nước ngoài buôn bán phải có giấy phép, nếu mang trộm vàng bạc ra ngoài sẽ bị xử theo luật chở trộm tiền, còn quan coi đồn sơ suất thì bị nghị tội.

 Tái hiện lễ thiết triều trước sân điện Thái Hòa. Nguồn: Trung tâm Bảo tồn di tích cố đô Huế.

Tái hiện lễ thiết triều trước sân điện Thái Hòa. Nguồn: Trung tâm Bảo tồn di tích cố đô Huế.

Nghiêm khắc xử lý hành vi gian dối

Bên cạnh việc ngăn dòng kim loại quý chảy ra ngoài, triều Nguyễn cũng thiết lập hệ thống in dấu, giám định và đăng ký vàng bạc để ngăn ngừa gian lận, giả mạo.

Sách Đại Nam thực lục cho biết, thời vua Gia Long [1802-1819], nhà Đồ gia ở Kinh đô Huế có 3 con dấu bằng sắt (một dấu khắc chữ “công chính”, một dấu khắc chữ “thập” (mười tuổi - chỉ thứ vàng thật tốt, thuần chất), một dấu khắc chữ “bát ngũ” (tám tuổi rưỡi - vàng tốt vừa).

Cục Tạo tác ở Bắc thành có 6 con dấu bằng sắt để in vào vàng bạc: một dấu khắc chữ “trung bình”, một dấu khắc chữ “thập lạng”, một dấu khắc chữ “giáp” (hạng tốt), một dấu khắc chữ “khán” (đã xét nghiệm rồi); một dấu khắc chữ “thực” và một dấu khắc chữ “công”. Hễ nhân dân có vàng bạc phải đem trình, xét nghiệm để in những chữ ấy vào mới được tiêu dùng. Các viên chức ở cục sở phải thu tiền in dấu chữ.

Đến năm Minh Mệnh thứ 13 [1832], vua cho định lại chữ hiệu in vào vàng bạc. Theo đó, Nội vụ phủ có 2 dấu sắt: một dấu khắc hai chữ “can chi” năm đúc, mỗi năm một lần khắc lại. Một dấu khắc 2 chữ “Nội nô” (của kho Nội phủ). Các địa phương cũng đều có 2 con dấu sắt một dấu khắc can chi năm đúc, một dấu khắc tên tỉnh hoặc trấn đều dùng lối chữ nổi. Phàm vàng bạc ở kho từ đĩnh 1 lạng trở lên, đều có in vào mặt đĩnh.

Về vàng tốt có 8 con dấu sắt riêng, khắc những chữ thất, bát, cửu, thập và thất ngũ, bát ngũ, cửu ngũ và thắng thập để in ở sau lưng đĩnh vàng ấy, người thợ xem sắc vàng bạc cũng cho tư chế 1 con dấu sắt, khắc một chữ tên mình để in ở bên tả từng đĩnh.

Lại ra lệnh phàm vàng bạc, những đĩnh từ 10 lạng trở lên đều in thêm 2 chữ “Minh Mệnh” để nêu rõ danh hiệu quan trọng.

Thời vua Minh Mệnh cũng là thời kỳ nhà Nguyễn củng cố kỷ cương và pháp luật chặt chẽ nhất. Việc đúc tiền, quản lý vàng bạc, và xử lý hành vi gian dối được quy định tỉ mỉ.

Sách Đại Nam thực lục cho biết, năm Minh Mệnh thứ 13 [1832], vua cho đúc Kim tiền và Ngân tiền “Phi long” (Kim tiền vàng 1.000 đồng, mỗi đồng nặng 3 đồng cân, dùng vàng 7, 8 tuổi, Ngân tiền 20.000 đồng, mỗi đồng nặng 7 đồng cân, dùng bạc 7 phần).

Vua sai Vũ khố chọn đất ở cục [đúc tiền], sắc cho quan chưởng ấn ở Hộ bộ, Công bộ và Nội vụ phủ cứ ngày chẵn, luân phiên nhau đến trường sở, coi thợ làm. Định lệ trừ hao (vàng 10 lạng, trừ hao 6 phân; bạc 10 lạng trừ hao 7 phân, sau đó đổi là 1 đồng cân). Khuyên răn thợ và người làm việc, nếu ai dám bớt xén, giả mạo hoặc pha trộn lẫn thì bị xử tử.

Có người thợ gian là Nguyễn Văn Khê đánh rơi mất đồng kim tiền, tự tiện lấy chỗ vàng thừa điền vào chỗ thiếu. Nguyễn Văn Tường lấy bạc pha lẫn với vàng, cả hai đều bị người coi quản phát giác, bộ Hình xử án khép Nguyễn Văn Khê vào luật lấy trộm của nả của Nội vụ phủ, xử chém, nhưng cho chịu tội đồ. Nguyễn Văn Tường khép vào luật làm vàng bạc giả, xử phạt trượng và bị tội đồ, còn đốc công sơ sót không xét rõ, thì xin phạt giáng chức.

Vua dụ rằng: “Nguyễn Văn Khê tình dẫu đáng ghét nhưng kim tiền chưa từng vào tay, còn có thể khoan giảm được. Nguyễn Văn Tường quen láu lỉnh, tang vật dẫu không nhiều, nhưng sự tình nặng hơn, lời bàn của bộ chưa được đúng. Vậy Nguyễn Văn Tường đổi ra tội trảm giam hậu; Nguyễn Văn Khê đổi ra tội phạt 100 trượng, cách dịch (bãi về, không cho làm việc, đóng gông 2 tháng, khi mãn hạn cho về nhập vào sổ dân chịu sai dịch).

Đến thời vua Thiệu Trị (1841-1847), việc làm giả vàng bạc vẫn tái diễn, nhất là ở vùng biên như Hà Tiên. Năm Thiệu Trị thứ 6 (1846), vua ban dụ đặc biệt nghiêm khắc: “Từ nay, phàm đúc ra bạc đĩnh, bạc nén, nếu kẻ nào dám đem đồng, chì pha lẫn thì không cứ tang số nhiều hay ít, tất đem ngay kẻ phạm xử tội tử hình”.

Vụ án Lê Văn Cơ, thợ bạc ở Hà Tiên, là minh chứng. Ông ta dám pha đồng vào bạc công, bị xử thắt cổ. Tuy vua nhận rằng “không dạy mà giết” là điều nhân tâm không muốn, nhưng vẫn khẳng định pháp luật phải răn đe mạnh để “trừ mối tệ, làm cho của dân được nhiều”.

Như vậy, vua Thiệu Trị đã nâng tội làm vàng bạc giả lên hàng trọng tội tử hình tuyệt đối, điều này thể hiện quyết tâm của ông trong việc trừ mối tệ này.

Minh Châu

Nguồn Znews: https://znews.vn/trieu-nguyen-tri-toi-lam-vang-bac-gia-ra-sao-post1596684.html