Triển khai hiệu quả, bền vững dạy học tiếng Anh bắt buộc từ lớp 1
Cần giải pháp đồng bộ để triển khai hiệu quả, bền vững chủ trương dạy học bắt buộc môn tiếng Anh từ lớp 1.

Dạy học tiếng Anh bắt buộc từ lớp 1 là cần thiết.
Nhận diện thách thức
Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Đề án “Đưa tiếng Anh thành ngôn ngữ thứ hai trong trường học giai đoạn 2025-2035, tầm nhìn đến năm 2045”. Một trong những nội dung đáng chú ý là Bộ GD&ĐT đề nghị triển khai dạy học môn tiếng Anh bắt buộc từ lớp 1 của Chương trình Giáo dục phổ thông (hiện tại đang bắt buộc từ lớp 3).
Bà Lê Thị Thanh Ngọc - Phó Tổng Giám đốc Phenikaa School cho rằng, độ tuổi 6 -7, trẻ đang ở “thời điểm vàng” để hình thành cảm nhận âm vị, nhịp điệu, ngữ điệu và thói quen phản xạ tự nhiên. Khi tổ chức đúng cách, các con tiếp thu qua nghe - nói - vận động, tích lũy vốn từ một cách vui vẻ, không áp lực. Bắt đầu sớm giúp xây nền vững cho các lớp trên, tạo tiền đề học tiếp các nội dung tích hợp bằng tiếng Anh (CLIL) như Toán, Khoa học, Âm nhạc…
Ở góc độ xã hội, thống nhất điểm xuất phát từ lớp 1 còn góp phần thu hẹp chênh lệch cơ hội giữa các vùng miền; thay vì vùng đô thị trẻ được tiếp xúc từ rất sớm, thậm chí ngay từ lứa tuổi mầm non thì nay mọi học sinh đều có khung thời gian và mục tiêu chung.
Thêm vào đó, trong bối cảnh tiếng Anh là ngôn ngữ quốc tế của thương mại, khoa học, công nghệ và văn hóa toàn cầu, việc sớm sử dụng thành thạo ngôn ngữ này sẽ nâng năng lực cạnh tranh của người học Việt Nam, chuẩn bị cho hội nhập và thị trường lao động tương lai.
Nhận diện những khó khăn, trở ngại lớn nhất khi triển khai đại trà, theo bà Lê Thị Thanh Ngọc, thách thức đầu tiên và quan trọng nhất là đội ngũ giáo viên.
Chúng ta cần đủ số lượng lẫn chất lượng: năng lực ngoại ngữ tương đương B2 theo CEFR, phát âm chuẩn để làm hình mẫu, đồng thời nắm vững phương pháp đặc thù cho học sinh lớp 1 (kể chuyện, trò chơi ngôn ngữ, vận động theo nhạc, quản trị lớp nhỏ tuổi).
Hiện nhiều giáo viên tiếng Anh được đào tạo bài bản về ngôn ngữ, nhưng chưa được trang bị đầy đủ phương pháp sư phạm cho lứa tuổi đầu cấp, dẫn tới độ đồng đều chưa cao.
Việc “bồi dưỡng ngắn hạn” nâng năng lực tiếng Anh cho đội ngũ giáo viên tiểu học hiện tại cần một lộ trình dài, đồng thời cũng khó có thể bù đắp khoảng trống kinh nghiệm với trẻ nhỏ cho đội ngũ giáo viên được đào tạo chính quy về tiếng Anh hiện có.
Khó khăn thứ hai nằm ở chương trình, học liệu và đánh giá. Lớp 1 là năm học sinh mới chính thức làm quen chữ viết tiếng mẹ đẻ; nếu thiết kế không hợp lý, việc học ngôn ngữ thứ hai có thể tạo áp lực, thậm chí ảnh hưởng đến sự phát triển ngôn ngữ tiếng Việt- vốn cần đủ vững để “bắc cầu” sang tiếng Anh.
Các bài kiểm tra giấy định kỳ không phù hợp với mục tiêu giao tiếp ban đầu; thay vào đó, lớp 1 cần đánh giá qua quan sát, hồ sơ học tập, sản phẩm như bản ghi âm, bài hát, đoạn hội thoại, đóng vai…
Khó khăn thứ ba là sĩ số và cơ sở vật chất. Ở khu vực đô thị, lớp đông khiến tổ chức nhóm nhỏ để luyện nói trở thành thách thức nếu thiếu trợ giảng. Nhiều nơi còn thiếu phòng học ngoại ngữ, thiết bị nghe nhìn ổn định, học liệu trực quan; chênh lệch về hạ tầng giữa các khu vực có thể làm tiến độ triển khai không đồng đều.

Giải pháp khả thi để triển khai hiệu quả, bền vững
Từ nhận diện các thách thức, bà Lê Thị Thanh Ngọc gợi ý một số giải pháp để triển khai hiệu quả, bền vững việc dạy học môn tiếng Anh bắt buộc từ lớp 1 như sau:
Thứ nhất, đề án cần thiết lập một lộ trình cụ thể, phân theo từng giai đoạn. Giai đoạn đầu (1-2 năm học) nên thực hiện thí điểm có kiểm chứng ở mỗi quận/huyện trên những tổ hợp trường đại diện đa dạng điều kiện. Mỗi điểm thí điểm phải đáp ứng bộ tiêu chí sẵn sàng: giáo viên đạt chuẩn, sĩ số phù hợp, cơ sở vật chất đảm bảo, đủ học liệu và kế hoạch hỗ trợ chuyên môn.
Trong suốt thời gian thí điểm, nhà trường thu thập dữ liệu định kỳ về tiến bộ học sinh, mức độ hài lòng của phụ huynh, áp lực học tập, nhu cầu hỗ trợ giáo viên; dữ liệu là cơ sở điều chỉnh chương trình, phương pháp, học liệu trước khi nhân rộng.
Thứ hai đó là chiến lược phát triển đội ngũ giáo viên. Cần kế hoạch bồi dưỡng thường xuyên với chỉ tiêu nâng chuẩn ngoại ngữ (ưu tiên B2-C1) và chuẩn phương pháp giảng dạy tiểu học. Hình thức nên đa dạng: sinh hoạt chuyên môn theo cụm; dự giờ - góp ý thường xuyên; thư viện bài giảng mẫu; cộng đồng thực hành trực tuyến; cơ chế kèm cặp 1-1 cho giáo viên mới.
Với trường còn thiếu giáo viên, có thể áp dụng mô hình đồng giảng giữa giáo viên tiếng Anh và giáo viên chủ nhiệm. Song song, cần chính sách thu hút sinh viên khối ngành sư phạm tiếng Anh, phụ cấp theo vị trí việc làm, quỹ học bổng nâng chuẩn dành cho giáo viên tham gia học tập văn bằng 2, cơ hội thăng hạng nghề nghiệp, ghi nhận thành tích sư phạm.
Ở các nơi có điều kiện có thể phối hợp với các tổ chức giáo dục quốc tế để sử dụng nguồn lực giáo viên nước ngoài tham gia giảng dạy hoặc phối hợp trong hoạt động đào tạo nâng chuẩn tiếng Anh cho giáo viên đặc biệt là kĩ năng giao tiếp.
Thứ ba, thiết kế mục tiêu - chương trình - học liệu và đánh giá phù hợp cho lớp 1: mục tiêu cốt lõi là hình thành thói quen lắng nghe - bắt chước - phản hồi bằng cụm từ/câu ngắn trong ngữ cảnh quen thuộc; làm chủ âm - vần cơ bản, nhịp điệu câu; gây dựng hứng thú với sách tranh, bài hát, kịch nhỏ.
Thời lượng gợi ý 2-3 tiết/tuần, thiết kế tiết học theo chu trình ngắn gọn, kết hợp các trò chơi vận động với ngôn ngữ. Không gian trường học cũng cần được khuyến khích sử dụng song ngữ hoặc hình thành các “góc tiếng Anh” trong lớp học.
Việc đánh giá định kỳ cũng cần thực hiện theo hướng đánh giá quá trình: hồ sơ năng lực (portfolio), bản ghi âm/ghi hình, nhiệm vụ giao tiếp ngắn…
Thứ tư, đẩy mạnh hoạt động đồng hành với phụ huynh. Nhà trường cần có những hướng dẫn cụ thể để phụ huynh rèn thói quen 10 phút mỗi ngày tại nhà: nghe lại bài hát hay câu chuyện, trò chơi với thẻ từ vựng; duy trì chia sẻ trực tuyến các audio/hình ảnh sản phẩm học tập…
“Tóm lại, triển khai tiếng Anh bắt buộc từ lớp 1 là bước đi phù hợp xu thế hội nhập và đáp ứng yêu cầu phát triển nguồn nhân lực. Thành công của đề án phụ thuộc rất nhiều yếu tố trong đó phải kể đến là: đội ngũ giáo viên được chuẩn hóa và hỗ trợ liên tục; chương trình - học liệu - đánh giá phù hợp đặc thù lứa tuổi; và cách tổ chức linh hoạt, dựa trên dữ liệu và đặt trải nghiệm tích cực của học sinh ở trung tâm.
Với lộ trình thí điểm có kiểm chứng, mở rộng theo mức độ sẵn sàng và sự đồng thuận của phụ huynh, các trường tiểu học ở Hà Nội hoàn toàn có thể xây dựng “hệ sinh thái tiếng Anh” thân thiện, hiệu quả ngay từ những năm đầu đời của trẻ. Tôi tin rằng sự đồng hành của gia đình - nhà trường - xã hội sẽ biến chủ trương thành chất lượng học tập thực tế, bền vững”, bà Lê Thị Thanh Ngọc nhận định.




























