Trích hồi ký 'Chuyện nghề phán xử': Đọc tới đây có ai còn cho là xét xử dân sự dễ?
Với án dân sự, có những trường hợp rất cần sự thông thái của các đương sự để xuất hiện phương án hai bên cùng có lợi và bản án mới có cơ hội ổn định, không bị kháng nghị.
Như PLO đã giới thiệu, ít ngày nữa thôi, nguyên Phó Chánh án TAND Tối cao Tưởng Duy Lượng sẽ ra mắt độc giả cuốn hồi ký “Chuyện nghề phán xử”.
Được sự đồng ý của tác giả, chúng tôi xin trích đăng một câu chuyện nằm trong cuốn hồi ký, với tựa đề:
Ra phiên tòa hòa giải
***
Lại một kỷ niệm, về một vụ án tranh chấp thừa kế ở đường Nguyễn Công Trứ - thành phố Hà Nội. Vụ án này Tòa Phúc thẩm TAND Tối cao tại Hà Nội xét xử và đã bị Chánh án Phạm Hưng kháng nghị, Ủy ban Thẩm phán TAND Tối cao tối cao xử hủy Bản án phúc thẩm. Tôi được giao xử lại vụ án với tư cách chủ tọa phiên tòa, sau khi có Quyết định giám đốc thẩm.
Đến giờ tôi còn nhớ số nhà vụ tranh chấp thừa kế, nhưng vì tế nhị không tiện nêu ra. Khi nghiên cứu hồ sơ chưa có cảm nhận gì khác so với sau này xuống xem thực địa, nên tôi thấy có thể thực hiện đúng như kháng nghị do Chánh án TAND Tối cao - Phạm Hưng ký và quyết định giám đốc thẩm của Ủy ban Thẩm phán TAND Tối cao đã định hướng đường lối xử lý.
Do còn một chút phân vân, lưỡng lự trong cách chia hiện vật, mà vụ án ngay tại Hà Nội, tôi bàn với Hội đồng xét xử cùng xuống tận nơi xem xét. Khi đến nơi xem tôi mới tá hỏa không biết xử thế nào, vì ngôi nhà 3 tầng có mặt tiền ở đường Nguyễn Công Trứ và một ngõ rộng nhất gần 2m, chỗ hẹp hơn 1m, đi sâu vào có một sân, tiếp đến là bếp ở cuối thửa đất.

Bìa cuốn hồi ký.
Vấn đề nằm ở chỗ ngôi nhà 3 tầng có nhiều phòng nhưng hiện chỉ còn hai hộ ở, một hộ là bị đơn đang ở tầng một, con gái đang hành nghề làm đầu, còn một hộ (thuộc nhóm sáu nguyên đơn) ở một phòng tầng hai. Các phòng khác không ai ở. Lý do là có chỗ tường nhà nứt to, đến mức cho bàn tay nghiêng là lọt qua. Nhà xuống cấp đến mức nguy hiểm cho những người còn ở lại là tình tiết cực kỳ quan trọng làm thay đổi nhận thức, nhưng tài liệu trong hồ sơ không thể hiện rõ.
Chỉ có một người đang ở tầng một là bị đơn. Sáu nguyên đơn yêu cầu chia gộp cho họ một phần. Không thể chia hiện vật như vụ án thông thường. Vậy cuộc sống của bị đơn, sự ổn định của bị đơn cần tính toán thế nào, tôi chưa tìm ra lối thoát.
Nếu chia cho bị đơn ở phía trong thì suất của ông chỉ được khu vực bếp, còn sân và ngõ đi dài 20m là cả một đống tiền, lấy đâu để bị đơn trả cho nguyên đơn. Trong khi cuộc sống bị đơn phụ thuộc vào thu nhập của những người con gái đang hành nghề làm đầu ở tầng một.
Thấy bí, tôi báo cáo xin ý kiến Chánh án Phạm Hưng. Ông góp ý đưa ra phương án thứ nhất, tôi đưa ra chứng minh sự không hợp lí. Ông gợi ý phương án thứ hai, tôi cũng làm vậy. Ông gợi ý phương án thứ ba tôi liền nói:
- Báo cáo Chánh án, phương án này Hội đồng xét xử Phúc thẩm lần trước đã xử và bị kháng nghị.
Chánh án Phạm Hưng sững người giây lát rồi xua tay nói: “Ra phiên tòa hòa giải”….
Bản án phúc thẩm của Tòa Phúc thẩm TAND Tối cao xử lần trước có sai sót bị Chánh án kháng nghị là cần thiết, chỉ có định hướng giải quyết trong quyết định giám đốc thẩm là chưa ổn. Nhưng chỉ đến khi xuống xem thực địa tôi mới nhìn nhận thấy rõ “cái chưa ổn” là không thể phân chia hiện vật dựa trên các phòng của căn nhà.
Trong nhiều năm giải quyết án dân sự tôi nhận thấy nếu như các vụ án khác chỉ cần Thẩm phán nghiên cứu kỹ hồ sơ, pháp luật là tìm ra phương án, nếu có gặp khó “lặn lội” xuống xem thực địa cũng tìm ra phương án tốt nhất và Hội đồng xét xử chủ động đưa ra quyết định đem đến sự công bằng. Vụ này thì khác, rất cần sự “hợp tác thiện chí với tinh thần chia sẻ rất cao giữa các bên”.
Từ đó có thể rút ra đôi điều mang ý nghĩa thực tế, đó là có những trường hợp rất cần sự thông thái của các đương sự để xuất hiện phương án hai bên cùng có lợi và bản án mới có cơ hội ổn định, không bị kháng nghị. Vụ án này chính là một ví dụ điển hình.
Khi xem hết nội dung tác giả viết, bạn đọc có chuyên môn sâu, đã từng giải quyết nhiều vụ án dân sự sẽ thấy vụ tranh chấp này rất đặc thù không thể có một phương án “có sẵn” như thông thường vẫn gặp. Đó là lý do giải thích vì sao lúc tôi đọc hồ sơ, nghiên cứu kỹ luật chưa phát hiện ra ngay cái khó, mà chỉ đến khi xuống xem thực địa mới thấy bí, buộc phải “cầu viện” tới Chánh án hy vọng với trí tuệ và kinh nghiệm dày dạn của ông sẽ gỡ bí cho tôi, chỉ ra “đường đi” sáng nước. Không ngờ cuối cùng Chánh án xua tay: “Ra phiên tòa hòa giải” làm tôi cũng có chút bất ngờ.
Đối với vụ tranh chấp này, chỉ dẫn của Chánh án là “phương án” hợp lý nhất, nhưng cũng khó khăn nhất, vì chưa có đường lối giải quyết rõ ràng. Hội đồng xét xử không có nhiều không gian để tự quyết định mà cần tới sự hợp tác tích cực của các bên đương sự, đặc biệt là nguyên đơn và tôi đã kiên nhẫn thực hiện theo gợi ý của Chánh án.
Tôi cắp hồ sơ về mà đầu ngổn ngang suy nghĩ với biết bao băn khoăn, lo lắng không biết tại phiên tòa các bên đương sự có hiểu được cái khó mà Hội đồng xét xử đang gặp? Liệu họ có chấp nhận cùng hợp tác để có kết quả tốt cho tất cả?
Tới hôm khai mạc phiên tòa lần thứ nhất, khi nghe Hội đồng phân tích và khuyên các đương sự nên nhân nhượng nhau, dung hòa lợi ích, các đương sự là nguyên đơn xin hoãn để về cùng bàn bạc phương án. Phiên tòa lần hai cũng diễn ra như vậy. Tôi ra sức phân tích, thuyết phục sáu nguyên đơn cần chia sẻ khó khăn với bị đơn, anh em nên có sự nhường nhịn. Sáu nguyên đơn lại xin hoãn. Đến phiên tòa lần thứ ba, tôi phân tích rõ hơn suy nghĩ của mình. Vì để ổn định bản án, không bị kháng nghị, vụ này rất cần sự nhường nhịn của sáu nguyên đơn thì mới có một phương án có lợi cho tất cả. Tôi không thể nói cụ thể, sẽ bị nghi ngờ là thiên vị.
Đến phiên tòa lần thứ tư, sáu nguyên đơn chỉ đồng ý không tính tiền một phần giá trị ngõ đi vào sân và bếp ở cuối thửa đất, phần còn lại giá trị còn rất lớn, trong khi sáu nguyên đơn muốn được chia phần ở mặt đường Nguyễn Công Trứ.
Đến lúc này, tôi phân tích, nếu yêu cầu của sáu nguyên đơn được chấp nhận sẽ có thuận lợi gì, bị đơn phải vào phía trong sẽ đảo lộn cuộc sống, gặp khó khăn thế nào. Dù đã gợi ý “đến nơi” mà các nguyên đơn vẫn không thay đổi ý kiến so với đề xuất đầu phiên tòa. Thấy không còn cách nào khác và cũng không thể cứ hoãn đi hoãn lại mãi tôi khẳng định: Lần này Hội đồng xét xử sẽ không hoãn phiên tòa nữa. Trong trường hợp không nhân nhượng để có hướng dung hòa quyền lợi hai bên thì nhà đất chỉ có vậy, tòa cứ phân chia các phòng cho mỗi bên. Như vậy, bản án này chắc chắn sẽ bị kháng nghị, vì các anh chị đâu có ở được. Nhưng Hội đồng xét xử không có phương án nào khác. Cả sáu nguyên đơn xin hội ý, Hội đồng tạm dừng phiên tòa.
Sau khi nguyên đơn báo cho thư ký đã hội ý xong, phiên tòa lại tiếp tục. Lúc này các nguyên đơn đồng ý cho bị đơn toàn bộ ngõ đi không phải trả tiền, để bị đơn vào ở nhà bếp. Bị đơn phản đối kịch liệt. Nhưng đây là phương án tốt nhất cho cả hai bên, nên cuối cùng Hội đồng xét xử đã tuyên chia cho bị đơn nhà bếp và một phần sân, chỉ trả giá trị phần sân được chia vượt quá kỷ phần. Còn ngõ đi mà con của bị đơn đang hành nghề làm đầu thì ghi nhận nguyên đơn cho bị đơn. Chia cho sáu nguyên đơn nhận toàn bộ diện tích nhà ba tầng và phần sân còn lại, sáu nguyên đơn bán cũng dễ, mà xây nhà cũng thuận lợi, khai thác được rất nhiều lợi ích từ diện tích và không gian được chia vì gần như được hưởng toàn bộ mặt tiền căn nhà, chỉ trừ ngõ đi. Như vậy, cả hai bên cùng có lợi.
Tuy vậy, sau khi xử phía bị đơn có con rể là bác sĩ công tác tại Bệnh viện 108, đến xin gặp tôi tại 48 Lý Thường Kiệt. Thời điểm đó, tôi mới chuyển từ căn phòng “chị Dậu” xiêu vẹo, mái lợp cũ kỹ phải phủ thêm giấy dầu mà mưa to vẫn dột, trong khuôn viên khu đất Tòa án gần cửa 43 Hai Bà Trưng, về ở gầm cầu thang ngôi nhà 48 Lý Thường Kiệt để có đất cho TAND TP Hà Nội xây nhà . Gầm cầu thang tôi ở có cửa hướng ra phía cổng 43 Hai Bà Trưng mà trước đây TAND TP Hà Nội đang sử dụng để tang vật các vụ án. Khi TAND TP Hà Nội chuyển tang vật đi, thì tôi tiếp quản ở tại đó cho đến khi được phân căn hộ tập thể. Gặp tôi, anh bác sĩ nói rằng ông bố vợ phản ứng, cho rằng phán quyết của tòa là bất công, đã chia ở phía trong mà còn phải trả chênh lệch phần diện tích sân được chia, về ông cụ không chịu ăn uống gì.
Tôi phân tích: Phần của cụ chỉ được diện tích bếp, chia thêm sân để gia đình có thể xây dựng nhà ở lâu dài, còn phần ngõ đi vẫn vừa hành nghề, vừa làm lối đi được.
Anh bác sĩ nói:
- Tôi cũng nhận thấy như thế là vừa ổn định lâu dài, vừa an toàn vì không biết nhà sập lúc nào.
Tôi bảo:
- Tòa án nói chưa chắc cụ đã thông, anh là con rể nên về giải thích cho cụ.
Đọc tới đây có ai còn cho là xét xử dân sự dễ?
Nhưng vụ này chưa dừng ở đó. Khi sáu nguyên đơn (hay người mua lại phần của nguyên đơn, tôi cũng không nhớ rõ) xây dựng lại phần nhà đất được chia, đã làm ban công trên phần khoảng không của lối đi đã chia cho bị đơn. Anh con rể là bác sĩ công tác ở Bệnh viện 108 lại đến tìm gặp tôi. Khi đó, tôi đã là Phó Chánh tòa Dân sự, phụ trách đúng mảng việc thừa kế này. Anh đề nghị Tòa án kháng nghị bản án phúc thẩm đó. Lúc này, tôi mới chợt nhận ra sơ suất của mình khi tuyên xử, không ghi rõ “khi phá bỏ nhà cũ để xây dựng lại, các nguyên đơn không được sử dụng phần khoảng không trên lối đi của bị đơn”. Tuy nhiên, sai sót này không nghiêm trọng, có cách xử lý đơn giản, không cần phải kháng nghị bản án. Tôi đã bảo anh bác sĩ:
- Trong bản án không có chỗ nào ghi là khoảng không trên lối đi nguyên đơn được sử dụng. Nay bất cứ ai tiến hành xây dựng lại nhà, đổ ban công, chiếm khoảng không của lối đi là sai. Anh về nói với ông cụ, viết đơn gửi cấp có thẩm quyền, khiếu nại và yêu cầu dừng xây dựng, vì đã chiếm khoảng không của mình. Chỉ mười ngày sau sự việc sẽ êm ngay. Lý do nhà đã bị phá, không có căn cứ pháp lý hay cơ sở thực tế nào để bảo rằng phía nguyên đơn được sử dụng khoảng không trên lối đi. Khi cấp có thẩm quyền cho dừng xây dựng để giải quyết tranh chấp, khi đó thiệt hại của bên đang xây dựng sẽ lớn hơn rất nhiều việc chiếm một ít khoảng không.
Anh bác sĩ nghe tôi và sau đó, bên xây dựng nhà không còn chiếm khoảng không lối đi của bị đơn nữa.
Đúng là lúc xử, đang mải mê “vật lộn” với mục tiêu chính, không chú ý đến chuyện có thể phát sinh sau này, nên quyết định của bản án viết không chặt chẽ.
Đây là một minh chứng cho việc ai cũng có thể phạm sai sót. May là sai sót này không nghiêm trọng, không làm cho các bên đương sự thêm một lần khổ ải. Đến thời điểm này, có lẽ có nguyên đơn, bị đơn đã trở thành người thiên cổ. Ai đó còn hiện diện trên cõi đời này, nếu đọc được những giãi bày của tác giả, mới có thể thấu hiểu được khó khăn và ít nhiều thông cảm, chia sẻ những gian khó, trăn trở mà người phán xử phải đối diện, xử lý khi muốn mang lại công bằng cho cả hai bên và níu giữ tình cảm anh em của họ.
Để bạn đọc ít nhiều cảm nhận được khó khăn khi giải quyết án dân sự, nhất là các vụ phải chia hiện vật là nhà đất, tại đây tôi sẽ nêu ra một góc khác của vấn đề định giá giúp bạn đọc hiểu được khó khăn khi tìm sự công bằng trong phân chia hiện vật là nhà đất cho mỗi bên.
Các diện tích nhà đất tương tự như trong vụ án ở đường Nguyễn Công Trứ, nếu phần phía sau không sâu khi định giá, Hội đồng định giá thường xác định 1m2 nhà đất đều có giá như nhau. Điều đó có nghĩa là 1m2 diện tích đất sân, bếp, ngõ đi, đều có giá như diện tích đất xây dựng nhà.
May là vụ án này diện tích sân ở phía sau rộng và phần ngõ đi sâu ở phía trong Hội đồng định giá xác định 1m2 đất sân, bếp, ngõ đi thấp hơn diện tích đất đã xây dựng nhà nhưng sự chênh lệch này cũng không lớn.
Khi là một sự vật hoàn chỉnh, với tính liên hoàn của sự vật, việc định giá như trên cũng là hợp lý. Nếu như nhà đất có thể chia đều hiện vật, ai cũng có mặt tiền, mặt hậu thì việc định giá nói trên không gây thiệt thòi cho bất kỳ đương sự nào, khi Tòa án phân chia cho mỗi bên một phần hiện vật. Nhưng khi Tòa án xét xử, sự vật được chia cắt ra thì giá trị 1m2 ở phía cuối nhà rất thấp so với diện tích nhà và càng thấp so với những mét vuông đất ở mặt tiền. Dù Hội đồng xét xử nhận ra sự bất hợp lý này, nhưng không thể tự thay đổi giá trị 1m2 đất cho những người được chia ở phía trong. Để giải quyết được khó khăn này, cơ quan có thẩm quyền cần có các nghiên cứu đưa ra các tiêu chí định giá khi phải chia cắt khúc các phần của sự vật cho các bên tranh chấp, trên cơ sở đó đưa ra mức giá hợp lý.
Trong khi chưa có giải pháp hiệu quả, các vụ án như nói trên rất cần sự nhân nhượng, chia sẻ giữa các đương sự, để Hội đồng xét xử có cơ hội lựa chọn phương án hợp lý, đem tới sự công bằng tương đối cho mỗi bên, mới giữ được ổn định của bản án, mỗi bên đương sự không phải kéo dài hành trình đi tìm công lý.
Cuốn “Chuyện nghề phán xử” có độ dài gần 500 trang, gồm 9 chương:
Chương 1: Quê hương- gia đình và tuổi thơ
Chương 2: Chọn nghề hay nghề chọn
Chương 3: Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Trị
Chương 4: Tòa án nhân dân tỉnh Bình Trị Thiên
Chương 5: Tòa án nhân dân tối cao – một hành trình mới
Chương 6: Kỷ niệm với các Chánh án
Chương 7: Nghề tay trái
Chương 8: Nghỉ hưu làm gì
Chương 9: Tâm linh hay ngẫu nhiên