Trí tuệ nhân tạo mở rộng cánh cửa học tập cho học sinh khuyết tật

Sự phát triển của trí tuệ nhân tạo (AI) đang mở ra cơ hội học tập bình đẳng cho học sinh khuyết tật, giúp các em vượt qua rào cản thị giác, thính giác và vận động, đồng thời hỗ trợ giáo viên trong việc cá nhân hóa phương pháp giảng dạy.

Ở Việt Nam, theo thống kê của Bộ GD-ĐT, hiện có hơn 600.000 trẻ em trong độ tuổi đi học mắc các dạng khuyết tật khác nhau. Tuy nhiên, chỉ một nửa trong số đó được đến trường, còn lại gặp khó khăn vì cơ sở vật chất, phương pháp giảng dạy chưa phù hợp hoặc thiếu công cụ hỗ trợ. Sự xuất hiện của AI, với khả năng xử lý ngôn ngữ, hình ảnh, giọng nói và hành vi, đang mở ra những giải pháp mới để khắc phục rào cản.

Một trong những ứng dụng nổi bật là công nghệ nhận diện giọng nói và chuyển đổi văn bản thành âm thanh. Các phần mềm dựa trên AI như VoiceOver, Google Text-to-Speech hay ứng dụng đọc màn hình bằng tiếng Việt đã giúp học sinh khiếm thị có thể nghe nội dung sách giáo khoa điện tử, tài liệu học tập, thậm chí cả văn bản do giáo viên gửi qua email.

Mô phỏng hoạt động của thiết bị qua chiếc nón để chuyển ngôn ngữ ký hiệu (thủ ngữ) sang giọng nói và văn bản, giúp người khiếm thanh và khiếm thính có thể giao tiếp dễ dàng với cộng đồng - sản phẩm của nhóm sinh viên ĐH Bách khoa (ĐHQG TP.HCM). Ảnh: Internet

Mô phỏng hoạt động của thiết bị qua chiếc nón để chuyển ngôn ngữ ký hiệu (thủ ngữ) sang giọng nói và văn bản, giúp người khiếm thanh và khiếm thính có thể giao tiếp dễ dàng với cộng đồng - sản phẩm của nhóm sinh viên ĐH Bách khoa (ĐHQG TP.HCM). Ảnh: Internet

Ngược lại, công cụ chuyển giọng nói thành văn bản cũng giúp học sinh khiếm thính dễ dàng tiếp cận bài giảng. Nhiều trường chuyên biệt tại TP.HCM, Hà Nội đã bắt đầu thử nghiệm việc tích hợp phần mềm nhận diện giọng nói trong lớp học để hỗ trợ học sinh có vấn đề về thính giác theo kịp nội dung bài.

Không chỉ dừng lại ở ngôn ngữ, AI còn mở rộng khả năng học tập thông qua hình ảnh và thị giác máy tính. Những ứng dụng như Seeing AI của Microsoft hay Be My Eyes đã chứng minh tính hữu ích khi giúp học sinh khiếm thị “nhìn thấy” thế giới xung quanh bằng lời mô tả tự động. Trong môi trường lớp học, hệ thống camera tích hợp AI có thể mô tả sơ đồ, hình vẽ, bảng biểu, giúp các em nắm bắt thông tin như bạn bè. Tại một số trường tiểu học ở Đà Nẵng, giáo viên đã thử nghiệm dùng thiết bị này để giảng dạy môn Toán, giúp học sinh khiếm thị hiểu rõ hình học không gian thông qua mô tả bằng lời kết hợp với âm thanh trực quan.

Bên cạnh đó, AI còn tạo ra môi trường học tập cá nhân hóa, một yếu tố quan trọng đối với trẻ em khuyết tật. Những hệ thống học trực tuyến tích hợp AI có khả năng phân tích tốc độ tiếp thu, mức độ khó khăn và khả năng tương tác của từng học sinh để đưa ra gợi ý bài tập phù hợp. Đối với học sinh rối loạn phổ tự kỷ, AI có thể phát hiện biểu hiện căng thẳng hoặc mất tập trung thông qua cử chỉ, nét mặt rồi điều chỉnh phương pháp giảng dạy, ví dụ giảm tải hình ảnh gây kích thích hoặc thay đổi giọng đọc để tăng khả năng chú ý.

Thực tế cho thấy nhiều quốc gia đã triển khai thành công mô hình này. Tại Nhật Bản, Bộ Giáo dục khuyến khích các trường phổ thông sử dụng robot dạy học tích hợp AI để hỗ trợ trẻ khiếm thính, trong đó robot đóng vai trò phiên dịch ngôn ngữ ký hiệu theo thời gian thực. Ở Mỹ, các phần mềm phân tích dữ liệu học tập đã được áp dụng rộng rãi để xây dựng giáo án cá nhân hóa cho học sinh gặp khó khăn trong đọc hiểu, nhờ vậy tỷ lệ hoàn thành chương trình học tăng rõ rệt.

Một buổi giới thiệu công nghệ cho học viên khuyết tật tại Công ty Cổ phần Nghị lực sống - doanh nghiệp xã hội. Ảnh Internet

Một buổi giới thiệu công nghệ cho học viên khuyết tật tại Công ty Cổ phần Nghị lực sống - doanh nghiệp xã hội. Ảnh Internet

Kevin Carrier, chuyên gia công nghệ hỗ trợ tại tổ chức Vision Loss Rehabilitation (Canada), chia sẻ về vai trò của AI hỗ trợ cho người khiếm thị với những lời rất đáng chú ý: “Công nghệ hỗ trợ không chỉ giúp bạn làm được việc, mà quan trọng hơn, là giúp bạn làm việc đó trong khi vẫn có thể cạnh tranh với người lành lặn và không cần đến sự giúp đỡ của người khác”.

Ông cũng nhấn mạnh rằng các tiến bộ trong lĩnh vực này như kính thông minh tích hợp AI có khả năng mô tả môi trường xung quanh “đang giúp ‘mở khóa rất nhiều cơ hội và khả năng cho người dùng”.

Ở Việt Nam, việc ứng dụng AI trong giáo dục đặc biệt còn ở giai đoạn đầu, chủ yếu do hạn chế về chi phí và cơ sở hạ tầng. Tuy vậy, nhiều dự án khởi nghiệp của sinh viên công nghệ thông tin đã tạo ra các sản phẩm hữu ích. Một nhóm sinh viên Đại học Quốc gia TP.HCM từng phát triển ứng dụng di động hỗ trợ trẻ khiếm thính học tiếng Việt bằng cách nhận diện khẩu hình miệng và chuyển thành ký hiệu trực quan. Một nhóm khác xây dựng phần mềm AI phát hiện lỗi phát âm cho trẻ khiếm thính sử dụng máy trợ thính, qua đó giúp các em rèn luyện giao tiếp tự tin hơn.

Không thể phủ nhận, việc đưa AI vào hỗ trợ học sinh khuyết tật còn gặp không ít thách thức. Thứ nhất là vấn đề chi phí, bởi các thiết bị hiện đại như camera AI, kính thông minh, robot hỗ trợ vẫn còn đắt đỏ. Thứ hai, giáo viên chưa được đào tạo bài bản để sử dụng công nghệ này, dẫn đến tình trạng khai thác chưa hiệu quả. Ngoài ra, vấn đề bảo mật dữ liệu cá nhân cũng đặt ra yêu cầu chặt chẽ, đặc biệt khi AI cần thu thập giọng nói, hình ảnh hoặc thông tin hành vi của học sinh. Tuy nhiên, những thách thức này không làm lu mờ tiềm năng to lớn mà AI mang lại.

Trong bối cảnh chuyển đổi số quốc gia, việc ưu tiên ứng dụng AI vào giáo dục cho học sinh khuyết tật mang ý nghĩa nhân văn sâu sắc. Nó không chỉ giúp các em tiếp cận tri thức mà còn tạo cơ hội hòa nhập xã hội, mở ra con đường nghề nghiệp trong tương lai. Một học sinh khiếm thị ở Hà Nội từng bày tỏ mong muốn trở thành lập trình viên nhờ được học qua phần mềm đọc màn hình và kho tài liệu trực tuyến tích hợp AI. Câu chuyện ấy minh chứng rằng khi rào cản được tháo gỡ, năng lực và ước mơ của các em hoàn toàn có thể chạm tới.

AI không phải “phép màu” giải quyết mọi khó khăn, nhưng với sự đầu tư đúng hướng, nó sẽ trở thành chiếc chìa khóa mở rộng cánh cửa giáo dục toàn diện cho học sinh khuyết tật. Điều cần thiết hiện nay là sự đồng hành của cả hệ thống, từ chính sách, doanh nghiệp, trường học đến cộng đồng để công nghệ này không chỉ dừng ở thí điểm mà trở thành giải pháp lâu dài, lan tỏa khắp các lớp học Việt Nam. Khi đó, mỗi học sinh, dù mang trong mình những khiếm khuyết, vẫn có thể tự tin bước vào hành trình học tập, phát triển và cống hiến cho xã hội.

Nguyễn Tuyết

Nguồn Một Thế Giới: https://1thegioi.vn/tri-tue-nhan-tao-mo-rong-canh-cua-hoc-tap-cho-hoc-sinh-khuyet-tat-236528.html
Zalo