'Trí tuệ của Việt kiều có thể tạo ra tác động rất lớn nếu đặt đúng vào vị trí mà dân tộc cần'

Đó là chia sẻ của TS Cao Anh Tuấn, nhà sáng lập Genetica và Life AI, với VietTimes khi trao đổi về chính sách thu hút nhân tài ưu tú từ nước ngoài trở về góp phần xây dựng đất nước.

Ngày 6/7/2025, Văn phòng Trung ương Đảng thông báo chỉ đạo "nóng" của Tổng Bí thư Tô Lâm: giao Bộ Nội vụ chủ trì, trong vòng hai tháng phải trình cơ chế đãi ngộ "vượt khung" để đưa ít nhất 100 chuyên gia hàng đầu về nước công tác.

Tại Hội nghị sơ kết 6 tháng đầu năm của Ban Chỉ đạo Trung ương về phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số ngày 2/7/2025, Tổng Bí thư nhấn mạnh yêu cầu "xây dựng cơ chế đãi ngộ đặc biệt" cho đội ngũ "tổng công trình sư", "kiến trúc sư trưởng", những người có vai trò then chốt trong triển khai các sáng kiến chiến lược về khoa học công nghệ, đặc biệt trong các lĩnh vực mũi nhọn như AI, bán dẫn, vật liệu mới.

Làm thế nào để các chỉ đạo của Tổng Bí thư thành hiện thực, nhằm phát triển đất nước? Tạp chí điện tử VietTimes mở diễn đàn MỜI GỌI VÀ PHÁT TRIỂN NHÂN TÀI để tiếp nhận ý kiến, đề xuất chính sách hoặc chia sẻ kinh nghiệm thực tiễn về việc thu hút, phát triển đội ngũ nhân tài quốc gia trong lĩnh vực khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo từ quý độc giả, chuyên gia, nhà quản lý, nhà khoa học, trí thức trong và ngoài nước.

Trước khi đồng sáng lập Genetica và Life AI, ông Cao Anh Tuấn (Tuấn Cao) - Tiến sĩ Khoa học Máy tính tại Đại học Cornell, Mỹ - từng làm việc tại Yahoo, đảm nhiệm vị trí kỹ sư chuyên về dữ liệu lớn và trí tuệ nhân tạo tại Google.

Năm 2019, ông Cao Anh Tuấn trở về Việt Nam cùng các cộng sự thành lập Genetica, công ty chuyên về giải mã gene bằng công nghệ trí tuệ nhân tạo, với mục tiêu đưa hệ gene người Việt vào bản đồ gene thế giới. Genetica đã hợp tác với Trung tâm Đổi mới Sáng tạo Quốc gia Việt Nam (NIC) để thành lập trung tâm giải mã gene lớn nhất Đông Nam Á tại Việt Nam.

Với tầm nhìn chiến lược và kinh nghiệm quốc tế, TS Cao Anh Tuấn đang góp phần quan trọng trong việc ứng dụng công nghệ sinh học và trí tuệ nhân tạo để cải thiện sức khỏe cộng đồng tại Việt Nam và khu vực.

- Ông đánh giá thế nào về chính sách thu hút 100 nhân tài Việt kiều của chính phủ Việt Nam?

- Chính sách thu hút nhân tài Việt kiều không phải là một hành động đơn lẻ mang tính thời điểm, mà cần được nhìn như một phần trong chiến lược dài hạn nhằm tái cấu trúc nền tảng phát triển quốc gia dựa trên tri thức – một mô hình phát triển bền vững đã được minh chứng ở nhiều quốc gia hậu công nghiệp.

Vì vậy, việc chính phủ Việt Nam chính thức đưa ra chính sách này là đúng hướng, nhưng tôi cho rằng, nó đến muộn ít nhất một thập kỷ nếu đặt trong ngữ cảnh chuyển đổi kinh tế số và cạnh tranh toàn cầu về chất xám.

Điều khiến tôi trăn trở không phải là việc chúng ta có chính sách hay không, mà là chúng ta có hệ tư tưởng phát triển dựa trên chủ quyền tri thức hay không. Thu hút Việt kiều chỉ hiệu quả khi đi kèm một triết lý rõ ràng rằng: quốc gia này không phát triển bằng cách thuê công nghệ, mua mô hình hay đi sau để học hỏi, mà phát triển bằng cách làm chủ dữ liệu, làm chủ công nghệ, và làm chủ mô hình kinh tế đặc thù của mình.

Ở Thung lũng Silicon, nơi tôi từng làm việc, các chính phủ, kể cả Mỹ, không “thu hút” nhân tài bằng khẩu hiệu. Họ xây thể chế, hạ tầng và cơ chế bảo vệ sáng tạo để nhân tài tự tìm đến. Việt Nam cũng cần như vậy. Chúng ta không thể kỳ vọng những người đang nắm giữ vị trí quan trọng trong các Big Tech toàn cầu trở về chỉ vì lời kêu gọi quê hương. Họ chỉ trở về khi thấy mình được bảo vệ, được tạo điều kiện, và có thể tạo ra ảnh hưởng thật sự.

Chúng ta đang bước vào cuộc đua về AI, sinh học phân tử, kinh tế dữ liệu. Nếu không định vị được rằng nhân tài chính là nền tảng chủ quyền mới, thì sẽ không còn kịp nữa, vì người đi sau sẽ không được phép dẫn đầu nếu không tự xây đường.

Lấy ví dụ, Hàn Quốc bắt đầu chương trình “Brain Korea 21” từ năm 1999, nhằm xây dựng thế hệ nhà nghiên cứu dẫn dắt nền kinh tế tri thức. Israel đã triển khai chính sách thu hút các nhà khoa học trở về từ đầu thập niên 2000, cung cấp kinh phí nghiên cứu và hỗ trợ tái định cư để họ tiếp tục làm khoa học trong nước. Singapore, trong suốt hai thập kỷ qua, đã liên tục đầu tư vào việc "nhập khẩu chất xám" không chỉ bằng mức lương cạnh tranh mà còn bằng hệ sinh thái nghiên cứu đẳng cấp và sự bảo vệ pháp lý chặt chẽ.

Trong khi đó, chính sách thu hút nhân tài Việt kiều của ta ở giai đoạn đó chủ yếu mới ở giai đoạn kêu gọi thiện chí, chưa có cơ chế thực thi mạnh mẽ và bền vững về mặt thể chế như hiện nay. Vì hơi muộn, nên rõ ràng Việt Nam đang đứng trước áp lực phải hành động nhanh và khác biệt nếu không muốn tụt lại trong cuộc cạnh tranh toàn cầu về nhân tài công nghệ.

- Từ trước đến nay có những Việt kiều ưu tú thành danh ở Big Tech nhưng chưa về Việt Nam hoạt động. Theo ông, nguyên nhân vì sao?

- Tôi cho rằng có 3 nhóm nguyên nhân chính và tất cả đều xoay quanh một điểm cốt lõi: chưa có một hệ sinh thái đủ độ tin cậy để những người giỏi tin rằng họ có thể tạo ra giá trị thực và được bảo vệ khi làm điều đó.

Thứ nhất là rào cản về môi trường chính sách và pháp lý chưa ổn định. Những Việt kiều từng làm ở Google, Meta, Amazon, hay các lab nghiên cứu tại Mỹ không sợ khó, nhưng họ rất sợ “mơ hồ chính sách”. Một người đã quen làm việc trong hệ thống nơi mà quyền sở hữu trí tuệ được bảo vệ đến từng dòng code, từng mô hình AI, sẽ không dễ đánh đổi để trở về một môi trường mà họ không chắc liệu công nghệ họ tạo ra có bị sao chép, tranh chấp, hay bị kiểm soát hành chính hay không.

Thứ hai là sự thiếu cơ chế chuyển đổi tri thức thành sức mạnh thị trường. Ở Silicon Valley, một mô hình AI tốt hay một phát kiến về công nghệ gene có thể nhanh chóng tiếp cận vốn đầu tư, cơ chế thử nghiệm, và hệ sinh thái startup mạnh mẽ. Trong khi đó, tại Việt Nam, những người về nước thường bị “lạc lõng”, bởi vì vẫn chưa có một tầng lớp trung gian đủ chuyên nghiệp để chuyển giao từ phòng lab sang thị trường, từ ý tưởng sang sản phẩm, từ nghiên cứu sang ứng dụng.

Thứ ba, một yếu tố rất thực tế nhưng ít được nói tới: sự thiếu an tâm về cuộc sống cá nhân và giáo dục con cái. Nhiều người đã có gia đình, con đang học trong hệ thống giáo dục tiên tiến ở nước ngoài. Để họ trở về Việt Nam, họ phải đánh đổi cả cấu trúc sinh hoạt và tương lai của con cái. Nếu hệ thống giáo dục trong nước chưa tạo được niềm tin đủ lớn, thì rất khó thuyết phục họ quay về toàn thời gian, chứ chưa nói tới việc dấn thân khởi nghiệp công nghệ tại quê nhà.

Tôi nghĩ phần lớn Việt kiều ưu tú vẫn rất đau đáu với đất nước. Nhưng như tôi đã nói ở trên, họ sẽ chỉ trở về khi họ thấy rằng Việt Nam không chỉ chào đón bằng lòng yêu nước, mà bằng một hệ tư tưởng phát triển dựa trên chủ quyền công nghệ và niềm tin vào sáng tạo nội lực.

Muốn thu hút người giỏi, ta phải thiết kế lại hệ sinh thái – cần một hệ sinh thái đủ tin cậy để họ trở về và có thể phát huy tối đa giá trị của mình.

- Là một người đã về Việt Nam sau khi làm việc tại các công ty công nghệ lớn của nước ngoài, xin ông chia sẻ lý trở về Việt Nam để thành lập Genetica thay vì tiếp tục làm việc cho Big Tech?

- Tôi từng có may mắn làm việc tại Google và một số công ty công nghệ lớn ở Silicon Valley – nơi mà kỹ thuật, con người, và hệ thống quản trị đều đạt đến trình độ tối ưu. Nhưng càng ở lâu trong hệ sinh thái đó, tôi càng nhận ra một điều: nếu người Việt chỉ giỏi để đi làm thuê cho thế giới, thì ta mãi không thể làm chủ tương lai của mình.

Tôi quyết định trở về Việt Nam không phải vì hết cơ hội ở Mỹ, mà vì tôi nhìn thấy một “khoảng trống chủ quyền” rất lớn trong lĩnh vực công nghệ sinh học, đặc biệt là công nghệ gene. Khi nghiên cứu sâu về bộ gene người Việt, tôi nhận ra rằng toàn bộ dữ liệu gene của chúng ta đang nằm trong tay các hệ thống phân tích được huấn luyện bằng dữ liệu châu Âu hoặc Bắc Á, dẫn đến kết quả thiếu chính xác, thậm chí gây sai lệch trong tư vấn sức khỏe.

Câu hỏi lớn đặt ra cho tôi lúc đó là: Vì sao người Việt không thể tự xây dựng một nền tảng phân tích gene riêng, huấn luyện bằng dữ liệu người Việt, và được điều hành bởi người Việt nhưng vẫn đạt chuẩn quốc tế? Không chỉ thể mô hình với sự hỗ trợ công nghệ có thể mở rộng sử dụng ở rất nhiều nước có nhu cầu tương tự như Việt Nam.

Và đó là lý do Genetica ra đời.

 TS Cao Anh Tuấn và đồng nghiệp tại Genetica

TS Cao Anh Tuấn và đồng nghiệp tại Genetica

Tôi không trở về để làm một công ty Việt. Tôi trở về để chứng minh rằng người Việt hoàn toàn có thể làm ra công nghệ đẳng cấp quốc tế, và hơn thế nữa, có thể định nghĩa lại cách thế giới nhìn nhận về dữ liệu cá nhân, về y tế chính xác, và về quyền tự chủ sinh học và xa hơn chính là chủ quyền từng thành viên quốc gia khu vực khác đều có thể áp dụng.

Tôi tin rằng: nếu không có ai trở về để xây dựng nền tảng tri thức bản địa, thì Việt Nam sẽ mãi phụ thuộc vào các mô hình ngoại nhập. Và trong kỷ nguyên AI, dữ liệu chính là lãnh thổ – ai làm chủ dữ liệu, người đó làm chủ tương lai. Vì vậy, lựa chọn trở về của tôi không phải là một quyết định cá nhân mà là một hành động có tính chiến lược và có hệ tư tưởng rõ ràng: phát triển quốc gia phải bắt đầu từ việc làm chủ tri thức của chính dân tộc mình.

- Ông thấy nhà nước cần có những chính sách cụ thể gì để thu hút nhân tài? Những thiếu sót của chính sách hiện nay cần khắc phục là gì?

- Thu hút nhân tài Việt kiều không thể chỉ là một chương trình kêu gọi mà phải được thiết kế như một chiến lược tái thiết nền tảng phát triển quốc gia trong kỷ nguyên cạnh tranh công nghệ. Để làm được điều đó, tôi đề xuất 3 nhóm chính sách cụ thể, dựa trên những điều tôi đã trực tiếp trải nghiệm và quan sát ở các quốc gia thành công trong việc “hồi hương chất xám”.

Thứ nhất, xây dựng cơ chế pháp lý bảo vệ tài sản trí tuệ và dữ liệu cá nhân một cách mạnh mẽ và thực thi được. Đây là “gót chân Achilles” của Việt Nam hiện nay. Một nhà nghiên cứu AI, công nghệ gene hay dược phẩm sẽ không đầu tư 10 năm cuộc đời để tạo ra công nghệ nếu họ không biết liệu mình có được pháp luật bảo vệ hay không.

Luật thì đã có, nhưng thực thi, giải thích và cơ chế xử lý tranh chấp vẫn chưa tạo được niềm tin. Điều này khiến nhiều nhà khoa học Việt kiều, dù rất tâm huyết, vẫn chọn tiếp tục làm việc tại Mỹ, châu Âu hay Singapore, nơi họ không cần phải lo lắng về việc bị mất quyền kiểm soát đối với phát minh của chính mình.

Thứ hai, áp dụng mô hình “sandbox thể chế” cho các lĩnh vực công nghệ mới. AI, công nghệ gene, blockchain, công nghệ sinh học tổng hợp… đều là những lĩnh vực mà luật pháp hiện tại chưa theo kịp tốc độ đổi mới. Thay vì cố gắng áp quy định cũ vào mô hình mới, tôi đề xuất xây “sandbox” – vùng thử nghiệm chính sách có giới hạn, có giám sát nhưng cho phép nhà khoa học và doanh nghiệp được quyền thử, sai và cải tiến.

Singapore đã làm điều này rất tốt với ngành fintech, sau đó mở rộng sang AI và y tế cá nhân hóa. Việt Nam hoàn toàn có thể phát triển mô hình phù hợp hơn với điều kiện quốc gia mình.

Thứ ba, cơ chế “hồi hương chất xám linh hoạt” và cộng đồng đầu mối uy tín. Không phải ai cũng có thể lập tức bỏ hết sự nghiệp để về nước. Chúng ta cần có chính sách cho phép tham gia bán thời gian, cố vấn từ xa, chuyển giao công nghệ, hoặc làm việc 3 - 6 tháng/năm tại Việt Nam. Điều quan trọng là phải có một đầu mối tin cậy, hoạt động chuyên nghiệp, đóng vai trò là “nền” cho cộng đồng Việt kiều khoa học – công nghệ toàn cầu kết nối và triển khai ý tưởng.

Hiện nay chúng ta thiếu đầu mối như vậy. Các chương trình mời gọi vẫn mang tính lễ nghi hoặc hành chính. Trong khi đó, những người giỏi cần một hệ thống vận hành có kỷ luật, có kết quả, và có khả năng nhân rộng giá trị của họ.

Tóm lại, nếu chính sách vẫn tiếp tục “xin về, mời về, khuyến khích về” mà không tạo được một hệ sinh thái đủ hấp dẫn, đủ tin cậy, và đủ mạnh để giữ người giỏi, thì chúng ta sẽ tiếp tục đánh mất cơ hội. Vì nhân tài cũng như dòng vốn, sẽ luôn chọn nơi có năng lực thực thi và tầm nhìn lâu dài.

- Ông có lời tư vấn gì cho thế hệ nhân tài chưa về Việt Nam hoạt động, đóng góp cho đất nước?

- Tôi xin nói điều này từ góc nhìn của một người đã từng rất do dự: tôi hiểu cảm giác khi bạn có công việc ổn định ở một tập đoàn công nghệ hàng đầu, sống trong một xã hội vận hành trơn tru, con cái học trường tốt, và mỗi lựa chọn "trở về" đều đi kèm rủi ro mà không ai gánh hộ.

Nhưng đồng thời, tôi cũng biết cảm giác được tham gia kiến tạo một điều gì đó có giá trị vượt lên trên sự an toàn cá nhân. Vì vậy, lời khuyên của tôi không phải là: hãy bỏ hết để về. Mà là:

Hãy giữ kết nối. Hãy tạo ảnh hưởng. Và khi đúng thời điểm – hãy trở về như một người kiến thiết, không phải người làm thuê.

Bạn không cần phải lên máy bay ngay hôm nay để đóng góp cho Việt Nam. Bạn có thể cố vấn từ xa, đầu tư vào startup công nghệ Việt, hỗ trợ một nhóm nghiên cứu, hay thậm chí chỉ cần giữ kết nối thường xuyên với các cộng đồng khoa học tại quê nhà.

Điều quan trọng hơn cả là bạn không quên rằng mình thuộc về đâu, và rằng trí tuệ của Việt kiều có thể tạo ra tác động rất lớn nếu đặt đúng vào vị trí mà dân tộc đang cần.

Chúng ta đang sống trong một thời đại mà chủ quyền quốc gia không chỉ được đo bằng đất đai hay quân sự mà còn là dữ liệu, thuật toán và năng lực đổi mới. Nếu thế hệ Việt kiều trí thức không tham gia định hình tương lai ấy cho Việt Nam, thì ai sẽ làm?

Tôi biết hành trình trở về không dễ. Nhưng nó xứng đáng nếu bạn tin rằng có những giá trị không thể đo bằng mức lương hay số cổ phần, mà chỉ có thể đo bằng di sản bạn để lại cho thế hệ sau.

- Xin cảm ơn ông về những chia sẻ tâm huyết này!

Đăng Khoa

Nguồn VietTimes: https://viettimes.vn/tri-tue-cua-viet-kieu-co-the-tao-ra-tac-dong-rat-lon-neu-dat-dung-vao-vi-tri-ma-dan-toc-can-post188342.html
Zalo