Trí thức dân tộc thiểu số giữ vai trò quan trọng ngay trong ngày đầu lập quốc

Bác sĩ Y Ngông Niê Kdăm (dân tộc Ê đê), người biết 5 thứ tiếng là một trí thức rất tiêu biểu mà người Pháp rất muốn tranh thủ. Thế nhưng ông cũng đã vì tấm lòng của mình đối với đất nước, với lãnh tụ Hồ Chí Minh mà đi theo cách mạng…

XEM VIDEO:

VietNamNet tổ chức tọa đàm trực tuyến với Giáo sư, Tiến sĩ khoa học, Nhà giáo Nhân dân Vũ Minh Giang - Đại học Quốc gia Hà Nội về vai trò của đội ngũ trí thức, trong đó có trí thức dân tộc thiểu số cho công cuộc dựng nước, giữ nước, hội nhập và phát triển.

Từ “hiền tài là nguyên khí quốc gia” tới “phi trí bất hưng”

Thưa GS Vũ Minh Giang, trong giai đoạn sau Cách mạng Tháng 8, đội ngũ trí thức Việt Nam nói chung và trí thức gốc Việt ở nước ngoài nói riêng, cũng như trí thức dân tộc thiểu số đã có những đóng góp thế nào trong việc xây dựng chính quyền non trẻ trên mọi nền tảng chính trị, văn hóa đến giáo dục, phát triển kinh tế - xã hội?

Cách mạng Tháng Tám là một sự kiện hết sức đặc biệt trong toàn bộ tiến trình lịch sử hàng nghìn năm của dân tộc. Đây là thời kỳ đất nước chuyển từ một vùng đất không còn tên trên bản đồ thế giới, trở thành một quốc gia độc lập.

Tôi đã nghiên cứu rất nhiều các nền quân chủ khác nhau, thấy rằng tinh hoa của những nước quân chủ ấy nằm ở tầng lớp hoàng tộc. Nhưng ở Việt Nam ngay từ thế kỷ thứ 15, tại Văn Miếu có bia ghi rõ “Hiền tài là nguyên khí quốc gia”, nguyên khí tức là không có nó đất nước không thể phát triển. Đây là quan niệm rất đặc biệt của người Việt. Sau này, bác học Lê Quý Đôn từng nói “phi trí bất hưng” nghĩa là một đất nước muốn hưng thịnh thì phải có tri thức.

Vì vậy khi chúng ta vừa giành chính quyền cách mạng, lãnh tụ vĩ đại Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đặc biệt coi trọng trí thức. Việc đầu tiên, vào ngày 3/9/1945 họp Chính phủ lâm thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nêu một trong những nhiệm vụ cấp bách là phải diệt giặc dốt. Lúc đầu chúng tôi cũng chỉ hiểu đấy là một quyết sách của đất nước tự do, nhân dân được hưởng quyền lợi học tập, bởi vì dân mình vốn bị nô dịch trong vòng tăm tối, 95 % dân mù chữ.

Giáo sư, Tiến sĩ khoa học, Nhà giáo Nhân dân Vũ Minh Giang trong cuộc tọa đàm.

Giáo sư, Tiến sĩ khoa học, Nhà giáo Nhân dân Vũ Minh Giang trong cuộc tọa đàm.

Sau đó 2 tuần lễ, trong thư gửi học sinh, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã thổi vào toàn dân khát vọng trở đưa Việt Nam thành một quốc gia hùng cường từ chấn hưng dân khí trên cơ sở nâng cao dân trí.

Tháng 11/1945, khi ta phải đối diện với thù trong giặc ngoài, rất khẩn trương chuẩn bị kháng chiến, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã quyết định dự lễ khai giảng Đại học Đông Dương, sau này là Đại học Quốc gia. Đây là thông điệp về trọng dụng nhân tài.

Và chính vì thế, khi Người sang Pháp để dự Hội nghị Fontainebleau, đã có những trí thức Việt đến gặp Người bởi họ nhận thấy rằng, chính quyền cách mạng với người đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh rất trọng trí thức.

Những người cùng với Chủ tịch Hồ Chí Minh về nước tham gia kháng chiến không chỉ vì họ là những người yêu nước, muốn đem sức mình ra để cống hiến cho sự nghiệp kháng chiến lâu mà còn bởi họ nhìn thấy người lãnh tụ, người đứng đầu chính quyền cách mạng này đặc biệt trọng thị nhân tài, trọng trí thức.

Những trí thức có tấm lòng với đất nước, với Bác Hồ

Vai trò của những trí thức ngay từ buổi đầu lập quốc đã thể hiện rất rõ, trong đó phải kể đến những người về từ Pháp, từ Nhật. Điển hình là kỹ sư Phạm Quang Lễ, sau này trở thành huyền thoại chế tạo máy của Việt Nam. Đấy chính là người được Bác Hồ đặt tên là Trần Đại Nghĩa. Rồi trí thức từng học Đại học Đông Dương ngành y trở thành nòng cốt cho ngành y tế Việt Nam trong thời kháng chiến chống Pháp, bác sĩ Tôn Thất Tùng.

Bác Hồ với Giáo sư Trần Đại Nghĩa. Ảnh tư liệu

Bác Hồ với Giáo sư Trần Đại Nghĩa. Ảnh tư liệu

Trong đội ngũ trí thức từ ngày đầu lập quốc, chúng ta nhìn thấy có nhiều trí thức dân tộc thiểu số. Ví dụ ông Cầm Văn Thinh, dân tộc Thái, người tích cực tham gia cách mạng từ rất sớm về sau giữ nhiều cương vị quan trọng. Hay nhà thơ Nông Quốc Chấn tham gia hoạt động cách mạng từ trước Cách mạng Tháng Tám. Ông vốn là trí thức người Tày, sau khi Nhật đảo chính Pháp đã tích cực tham gia hưởng ứng những cuộc vận động của Việt Minh, rồi theo Việt Minh và về sau trở thành một trong những người tham gia chính quyền cách mạng đầu tiên.

Hay bác sĩ Y Ngông Niê Kdăm (dân tộc Ê đê), người biết 5 thứ tiếng, là một trí thức rất tiêu biểu mà người Pháp muốn tranh thủ. Thế nhưng ông cũng đã vì tấm lòng của mình đối với đất nước, với lãnh tụ Hồ Chí Minh mà đi theo cách mạng.

Có thể thấy, không chỉ đội ngũ trí thức nói chung, mà những trí thức thuộc các dân tộc khác nhau ở Việt Nam cũng đã có nhiều đóng góp hết sức quan trọng cho cách mạng tháng Tám và cuộc kháng chiến trường kỳ của dân tộc.

Chúng ta đều nhận thấy, khi chúng ta muốn dốc toàn tâm, toàn lực để xây dựng đất nước hùng cường thì không thể thiếu vai trò của đội ngũ trí thức. Đây cũng là một chủ trương đúng đắn, có ý nghĩa to lớn của Đảng Cộng sản Việt Nam do Chủ tịch Hồ Chí Minh dẫn dắt - đó là trọng dụng nhân tài.

Tôi còn nhớ những năm đầu của thập niên 1960, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã có cuộc gặp gỡ mà sau này được coi là một sự kiện lịch sử - cuộc gặp các đại diện trí thức. Nên chúng ta đã có những vị bộ trưởng không phải là đảng viên nhưng tận tụy phục vụ đất nước. Ví dụ GS, TS Nguyễn Văn Huyên, người đảm nhận cương vị Bộ trưởng Giáo dục trong thời gian rất dài. Khi ấy ông e có dị nghị nên đã trực tiếp gặp Chủ tịch Hồ Chí Minh để xin thôi, không làm bộ trưởng nữa. Nhưng Người đã động viên rằng, quan trọng nhất là đóng góp cho cách mạng và việc ông Nguyễn Văn Huyên tiếp tục làm Bộ trưởng Bộ Giáo dục là cách đóng góp tích cực nhất…

Một tầm nhìn vượt đại dương, xuyên thời đại

Sự nghiệp độc lập dân tộc, thống nhất giang sơn khiến chúng ta mất 30 năm sau Cách mạng tháng Tám. Trong suốt hành trình biết bao hy sinh gian khổ ấy, chúng ta thấy sự đóng góp hết sức to lớn của đội ngũ trí thức với những tấm gương điển hình trên mọi lĩnh vực.

Tôi nhiều lần từng nhắc đến nhà thơ Lê Anh Xuân với “Dáng đứng Việt Nam”. Ông đã được phong Anh hùng lực lượng vũ trang và những tác phẩm thơ văn của ông đã được trao tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật. Đây là một trí thức tiêu biểu. Ông là một cán bộ giảng dạy khoa sử trường Đại học Tổng hợp Hà Nội, con trai của một trí thức - ông Ca Văn Thỉnh (tên thật của anh Lê Anh Xuân là Ca Lê Hiến). Người trí thức ấy khi đất nước có chiến tranh đã ra trận và hy sinh anh dũng. Tấm gương ấy đã khích lệ, động viên cả một thế hệ ra trận…

Và, đã nói đến Lê Anh Xuân thì phải nói đến Hoàng Kim Giao. Thiếu úy, liệt sĩ Hoàng Kim Giao là một nhà khoa học trẻ tuổi đã anh dũng hy sinh cuối năm 1968 trong khi làm nhiệm vụ. Gần 40 năm sau ngày ông hy sinh, công trình nghiên cứu phá bom từ trường của ông và đồng đội đã được tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh đợt 1 (năm 2006).

Cũng phải nói đến một tầm nhìn vượt đại dương, xuyên thời đại của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã gửi rất nhiều trí thức ra nước ngoài học tập và đó chính là nòng cốt cho sự phát triển khoa học, công nghệ giai đoạn tiếp theo, khi chúng ta có hòa bình, thống nhất.

Tôi còn muốn đề cập tới đội ngũ trí thức xa Tổ quốc. Ví dụ một vị giáo sư có cuộc sống rất đầy đủ, điều kiện làm việc thuận lợi tại một đất nước phát triển là Nhật Bản - ông Lương Đình Của. Thế nhưng theo tiếng gọi của đất nước, vào những năm tháng khó khăn ác liệt nhất, ông đã cùng người vợ Nhật Bản về Việt Nam sinh sống trong sự thiếu thốn, và có những đóng góp to lớn cho nền nông học.

Hòa hợp bởi chung tấm lòng vì đất nước, vì dân tộc.

Thưa GS, sau năm 1975, đặc biệt từ thời kỳ Đổi mới, trí thức Việt Nam đã tiếp tục khẳng định vai trò của mình thế nào trong các lĩnh vực khoa học công nghệ, văn hóa và đối ngoại…? Ông đánh giá ra sao về những đóng góp của trí thức đối với công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước?

Sau năm 1975, cùng với những thuận lợi vô cùng to lớn khi giang sơn về một mối, chúng ta có một đất nước trải dài từ Mục Nam Quan tới Mũi Cà Mau, từ rừng núi Tây Nguyên đến những quần đảo xa xôi Hoàng Sa, Trường Sa…

Bên cạnh những thuận lợi ấy, chúng ta gặp không ít khó khăn. Khó khăn thứ nhất phải nhìn thẳng vào đó là sự “ly tâm” trong dân và đội ngũ trí thức không tránh khỏi ảnh hưởng bởi hoàn cảnh lịch sử đó.

Thứ hai, chúng ta có 30 năm tiến hành hai cuộc kháng chiến trường kỳ, gần như tất cả nhân tài, vật lực, trí tuệ dồn cho chiến thắng, nhưng năng lực quản lý xã hội, năng lực làm kinh tế lại có phần hạn chế.

Vấn đề đặt ra không chỉ với lãnh đạo, cơ quan quản lý nhà nước mà còn đối với đội ngũ trí thức, là làm sao chúng ta có thể có được sự hòa hợp. Hòa hợp về mặt chính trị thì phải dần dần. Nhưng qua nghiên cứu, tôi nhận thấy, sự hòa hợp trong giới trí thức diễn ra sớm hơn rất nhiều. Tôi đã từng dự cuộc gặp gỡ các trí thức Việt kiều về nước vào những năm 1980 và rất xúc động. Tất cả đều chung tấm lòng vì đất nước, vì dân tộc.

Đội ngũ trí thức hòa giải rất sớm, tạo ra sự liên kết bằng tình cảm, bằng chuyên môn, như GS Trần Thanh Vân – người Pháp gốc Việt, hỗ trợ rất nhiều học bổng cho sinh viên trong nước du học các nước như Pháp, Hoa Kỳ. Thế nhưng, đóng góp có lẽ đáng kể nhất và giá trị nhất của đội ngũ trí thức là tham gia vào công cuộc đổi mới, nhất là nhận thức ra được hạn chế của ta trong quản lý kinh tế, quản trị kinh doanh

GS Vũ Minh Giang: "Trọng trí tuệ, trọng trí thức, coi việc học hành để có kiến thức, đem kiến thức phục vụ đất nước trở thành “bản năng” của dân tộc Việt Nam"

GS Vũ Minh Giang: "Trọng trí tuệ, trọng trí thức, coi việc học hành để có kiến thức, đem kiến thức phục vụ đất nước trở thành “bản năng” của dân tộc Việt Nam"

Nguyên khí thịnh thì đất nước đi lên

Nhìn từ lịch sử đến hiện tại, GS có thể chỉ ra bài học nào về việc coi trọng vai trò của trí thức trong sự nghiệp bảo vệ và xây dựng đất nước?

Việt Nam là quốc gia với vị trí địa chiến lược đặc biệt, nên dân tộc chúng ta thường xuyên phải đối mặt với những thử thách vô cùng hiểm nghèo. Trong bối cảnh như thế, trí tuệ Việt Nam luôn luôn phải được khai thác, phải được phát huy để đưa đất nước đi lên. Tôi nhắc lại một triết lý tầm cao “Hiền tài là nguyên khí quốc gia” - nguyên khí thịnh thì đất nước đi lên mà nguyên khí suy thì đất nước từ từ tàn tạ mà đi xuống.

Từ đó đưa ra khái quát muốn phát triển không thể thiếu trí thức “phi trí bất hưng”. Trọng trí tuệ, trọng trí thức, coi việc học hành để có kiến thức, đem kiến thức phục vụ đất nước trở thành “bản năng” của dân tộc Việt Nam. Trong mọi dấu mốc xây dựng, bảo vệ và phát triển đất nước đều có sự đóng góp của trí thức.

Đến nay, khi chúng ta chuẩn bị bước sang một giai đoạn mới, Bộ Chính trị đã ra Nghị quyết 57 và coi đó trụ cột quan trọng để khơi nguồn lực trí tuệ của dân tộc, vì sự phát triển của đất nước. Đây là giải pháp rất tích cực để chúng ta có thể vươn mình một cách mạnh mẽ, để có những phát triển mang tính đột phá trong tương lai.

Nhà khoa học nào cũng có Tổ quốc của mình

Giáo sư cũng là một điển hình trí thức tiêu biểu, vậy thì nếu có thể chuyển tải thông điệp đến các nhà hoạch định chính sách về việc coi trọng trí thức, coi trọng nhân tài, GS sẽ chuyển tải thông điệp nào?

Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta luôn thể hiện sự quan tâm đối với trí thức, với khoa học công nghệ. Nhưng chúng ta thấy dường như có những điểm nghẽn nào đó, nên trí tuệ Việt Nam, đội ngũ trí thức Việt Nam chưa phát huy hết khả năng.

Ví dụ Nghị quyết 57 rất trúng, rất đúng, nhưng cần thể chế hóa rõ ràng. Ví dụ thực hiện một dự án, đề tài, chương trình khoa học thì quy định về tài chính lại bị chi phối bởi những quy định khác. Nên lãnh đạo cấp trên phải có những giải pháp cụ thể, hiệu quả và rất cần lắng nghe đề xuất thiết thực của trí thức.

Thứ hai, những trí thức tham gia vào hoạt động khoa học công nghệ không phải là những người có ý định làm giàu. Điều họ làm là muốn sáng tạo, muốn đóng góp thì với cấp trên, họ rất cần được tin dùng, lắng nghe, được sử dụng. Vừa rồi, Tổng Bí thư Tô Lâm đã gặp mặt các đại biểu nhà khoa học, trí thức, văn nghệ sĩ và điều này khiến đội ngũ chúng tôi vô cùng phấn chấn, cảm giác được lãnh đạo chú ý lắng nghe. Điều này cần phải thường xuyên hơn, trực tiếp hơn.

Thứ ba, môi trường hoạt động khoa học không bằng phẳng, đôi khi là gian nguy, người làm khoa học cũng phải có quyền được sai chứ không phải làm gì cũng đúng, cũng ra ngay đích đến. Tôi nhớ một câu cách ngôn của một nhà bác học nổi tiếng thế giới rằng, phải coi tài năng là tài nguyên đặc biệt và vô giá của một dân tộc. Chỉ khi nào nhận thức được điều này, đất nước mới thành công.

Khoa học thì không có biên giới nhưng mỗi người đều có Tổ quốc. Nhà khoa học nào cũng có Tổ quốc của mình. Tôi muốn nhắn gửi tới tất cả đồng nghiệp của tôi đang làm khoa học rằng, có làm lĩnh vực gì, nghề nghiệp gì, bên cạnh sự phát triển của khoa học nhân loại, xin nhớ phải luôn có lợi cho đất nước, cho dân tộc mình.

Thái An

Huy Phúc

Nguyễn Đức

Xuân Minh

Lê Anh Dũng

Nguồn VietnamNet: https://vietnamnet.vn/tri-thuc-dan-toc-thieu-so-giu-vai-tro-quan-trong-ngay-trong-ngay-dau-lap-quoc-2438464.html
Zalo