Trái phiếu xanh: Kênh dẫn vốn chiến lược trong cuộc chuyển đổi của doanh nghiệp Việt Nam

Trái phiếu xanh (TPX) đang trở thành một hướng đi tiềm năng cho khu vực tư nhân trong bối cảnh phát triển xanh dần trở thành tiêu chuẩn toàn cầu, buộc doanh nghiệp không thể đứng ngoài cuộc. Với vai trò kết nối dòng vốn đầu tư và trách nhiệm môi trường, TPX được kỳ vọng sẽ thúc đẩy chuyển dịch xanh tại Việt Nam.

Ông Đỗ Ngọc Quỳnh Tổng Thư ký VBMA - Ảnh Mai Thư

Ông Đỗ Ngọc Quỳnh Tổng Thư ký VBMA - Ảnh Mai Thư

Thưa ông! Nếu nhìn từ phía doanh nghiệp phát hành, theo ông, thị trường trái phiếu xanh tại Việt Nam hiện nay đang có những cơ hội và tiềm năng phát triển như thế nào?

Tại tọa đàm “Phát triển thị trường trái phiếu xanh: Tìm kiếm cơ hội trong hành trình tiến đến Net Zero” do Tạp chí Kinh tế - Tài chính tổ chức vào ngày 26/6, các chuyên gia và doanh nghiệp đã thảo luận về tiềm năng, thách thức và điều kiện cần thiết để thị trường TPX phát triển bền vững. Đại diện cho cộng đồng doanh nghiệp phát hành, ông Đỗ Ngọc Quỳnh, Tổng Thư ký Hiệp hội Thị trường Trái phiếu Việt Nam (VBMA) đã chia sẻ quan điểm về động lực, cơ hội và nền tảng để TPX trở thành công cụ tài chính hiệu quả trong hành trình hướng tới Net Zero.

Ông Đỗ Ngọc Quỳnh: TPX Việt Nam đang bước vào một giai đoạn phát triển đầy hứa hẹn. Tăng trưởng xanh và phát triển bền vững không còn là xu hướng lựa chọn, mà đã trở thành định hướng bắt buộc trong chiến lược phát triển kinh tế dài hạn của nhiều quốc gia. Việt Nam là một trong những nước tiên phong trong khu vực, với các cam kết rõ ràng – đặc biệt là mục tiêu đạt phát thải ròng bằng “0” vào năm 2050 được Thủ tướng Chính phủ khẳng định tại Hội nghị COP26.

Những cam kết này đang dần được thể chế hóa thông qua hệ thống chính sách, quy hoạch và các chương trình hành động cụ thể. Tuy nhiên, để các mục tiêu đó có thể chuyển hóa thành kết quả thực chất, nền kinh tế cần được tiếp sức bằng nguồn lực tài chính đủ lớn, đủ dài hạn và đủ bền vững. Theo đánh giá của Ngân hàng Phát triển châu Á (ADB) và nhiều tổ chức tài chính quốc tế, Việt Nam cần huy động khoảng 10–20 tỷ USD mỗi năm để phục vụ các chương trình phát triển xanh và ứng phó với biến đổi khí hậu – một con số vượt xa khả năng cung ứng của ngân sách nhà nước và hệ thống tín dụng truyền thống.

Trong bối cảnh đó, TPX nổi lên như một công cụ tài chính phù hợp và giàu tiềm năng. Không chỉ cho phép huy động vốn dài hạn với chi phí hợp lý, loại hình trái phiếu này còn gắn liền với tính minh bạch, trách nhiệm giải trình và định hướng sử dụng vốn rõ ràng. Đặc biệt, TPX phù hợp với các lĩnh vực cần thời gian hoàn vốn dài như hạ tầng xanh, giao thông bền vững hay năng lượng tái tạo.

Không chỉ dành riêng cho doanh nghiệp, TPX còn có thể được phát hành bởi Chính phủ và chính quyền địa phương, nhằm huy động nguồn lực cho các dự án công có quy mô lớn và tác động dài hạn. Đây chính là kênh dẫn vốn có thể tạo ra sự thay đổi cấu trúc trong chiến lược huy động và phân bổ nguồn lực tài chính quốc gia.

Từ góc nhìn tổng thể, phát triển thị trường TPX tại Việt Nam không còn là câu chuyện của tương lai, mà đã trở thành một nhu cầu thiết thực ở thời điểm hiện tại. Khi hành lang pháp lý đủ rõ, chính sách hỗ trợ thực chất, và hệ sinh thái thị trường được vận hành đồng bộ, TPX sẽ không chỉ là công cụ tài chính, mà còn là cầu nối giữa cam kết khí hậu và hành động kinh tế thực tiễn – giúp Việt Nam tiến nhanh và vững vàng hơn trên hành trình tăng trưởng xanh và phát triển bền vững.

PV: Ông nhìn nhận như thế nào về khuôn khổ pháp lý hiện nay đối với hoạt động phát hành trái phiếu xanh tại Việt Nam?

Ông Đỗ Ngọc Quỳnh: Để phát triển một kênh dẫn vốn hay một sản phẩm tài chính như trái phiếu xanh, điều đầu tiên chúng ta cần nhìn vào là bản chất của thị trường – cụ thể là sự cân bằng giữa rủi ro với hiệu quả đầu tư. Bất kỳ sản phẩm tài chính nào cũng chỉ thực sự phát triển khi đảm bảo dòng tiền đầu tư được sử dụng và có thể quay vòng hiệu quả, mang lại lợi ích phù hợp cho cả nhà đầu tư, tổ chức phát hành, xã hội và nền kinh tế.

Trái phiếu xanh là công cụ huy động vốn cho các dự án thân thiện với môi trường, góp phần vào chiến lược phát triển bền vững quốc gia. Tuy nhiên, bên cạnh một phân khúc nhà đầu tư đặc thù ( impact investors…) thì đại đa số nhà đầu tư sẽ chỉ quan tâm nếu sản phẩm này có mức độ rủi ro phù hợp và hiệu quả đầu tư đủ hấp dẫn. Do đó, khung pháp lý cần hướng đến việc tạo lập niềm tin, hài hòa lợi ích giữa các bên: nhà đầu tư – doanh nghiệp – nhà nước.

Về định hướng, có thể nói Chính phủ và các cơ quan quản lý đã thể hiện quyết tâm rất lớn. Các nội dung liên quan đến TPX đã được đưa vào Luật Chứng khoán, Luật Bảo vệ môi trường, Luật Tổ chức tín dụng và các nghị định chuyên ngành. Tuy nhiên, điểm nghẽn rõ nhất hiện nay là thiếu một bộ tiêu chí pháp lý mang tính ràng buộc, minh bạch và khả thi để xác định thế nào là “xanh”.

Ở nhiều quốc gia, bộ tiêu chí xanh là nền tảng bắt buộc. Nó xác định rõ danh mục ngành nghề, hoạt động, công nghệ và các chỉ số định lượng đủ điều kiện được gọi là “xanh”. Tại Việt Nam, chúng ta đang thiếu công cụ này. Điều đó dẫn đến doanh nghiệp không biết dự án nào đủ chuẩn, đơn vị đánh giá không có căn cứ, và nhà đầu tư thì thiếu hệ quy chiếu để ra quyết định.

Bên cạnh đó, một điểm quan trọng nữa là chi phí phát hành TPX cao hơn đáng kể do phải chi thêm cho hoạt động đánh giá độc lập, xác minh xanh, công bố thông tin, giám sát sử dụng vốn… Thậm chí, nhiều nước còn yêu cầu kiểm toán về mức độ đáp ứng các tiêu chí xanh suốt vòng đời trái phiếu. Điều này làm tăng gánh nặng cho cả doanh nghiệp và tổ chức phát hành.

Chưa kể, các công nghệ xanh – nếu muốn đạt tiêu chuẩn quốc tế – thường có giá thành đầu tư ban đầu cao hơn đáng kể so với công nghệ thông thường. Điều này ảnh hưởng trực tiếp đến khả năng cạnh tranh và hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp, nếu không có chính sách hỗ trợ kèm theo.

Vì vậy, nếu muốn khuyến khích TPX phát triển, không thể chỉ dừng ở “khuyến khích chung chung”, mà cần các giải pháp đồng bộ và cụ thể: (i) Hỗ trợ chi phí thẩm định, đánh giá xanh cho tổ chức phát hành; (ii) Cơ chế ưu đãi về thuế, đất đai, tín dụng, thời gian xử lý hồ sơ; (iv) Công nhận và đào tạo các tổ chức trung gian chuyên trách như đơn vị xác minh, kiểm toán môi trường, tổ chức xếp hạng ESG trong nước.

Với nhà đầu tư, cũng cần có các ưu đãi đủ hấp dẫn ( thuế, thanh khoản…) để khuyến khích họ chọn TPX thay vì các sản phẩm đầu tư khác. Một số nước đã yêu cầu các quỹ đầu tư phải phân bổ tối thiểu một tỷ lệ vào danh mục xanh – vừa tạo dòng vốn dài hạn, vừa tăng sức hấp dẫn cho thị trường.

Cuối cùng, muốn thị trường TPX phát triển, cần một khung pháp lý hoàn chỉnh trên cả ba trụ cột: (i) tiêu chí xanh rõ ràng, đo lường được; (ii) cơ chế khuyến khích thực chất; và (iii) hệ sinh thái trung gian đủ năng lực và được pháp luật công nhận. Khi có một chuẩn “xanh” rõ ràng, có định hướng minh bạch, có lợi ích hài hòa, khi đó trái phiếu xanh mới thực sự trở thành công cụ dẫn vốn chiến lược cho tăng trưởng bền vững của Việt Nam.

Doanh nghiệp phải thấy được hiệu quả rõ ràng khi đầu tư vào xanh. Ảnh Internet

Doanh nghiệp phải thấy được hiệu quả rõ ràng khi đầu tư vào xanh. Ảnh Internet

PV: Cơ cấu phát hành TPX trong thời gian qua đã có sự chuyển dịch tích cực từ khối tài chính – ngân hàng sang sự tham gia ngày càng nhiều hơn của các doanh nghiệp ngoài ngành tài chính, với đa dạng lĩnh vực như cơ sở hạ tầng, năng lượng, sản xuất bền vững... Theo ông, để thúc đẩy và lan tỏa mạnh hơn xu hướng xanh hóa trong cộng đồng doanh nghiệp, thời gian tới cần làm gì?

Ông Đỗ Ngọc Quỳnh: Như tôi đã chia sẻ từ đầu, yếu tố thúc đẩy mạnh mẽ nhất đối với cộng đồng doanh nghiệp, đặc biệt là khu vực tư nhân, khi tham gia vào thị trường trái phiếu xanh hay thực hiện chiến lược phát triển bền vững, chính là bài toán lợi ích. Doanh nghiệp là chủ thể kinh doanh, và nếu họ không nhìn thấy cơ hội lợi ích rõ ràng, thì rất khó kỳ vọng họ chủ động tham gia.

Vì vậy, vai trò điều tiết của Nhà nước ở đây là vô cùng quan trọng – để thiết lập một cơ chế điều tiết hài hòa lợi ích giữa các chủ thể. Khi chúng ta lựa chọn chuyển hướng phát triển từ mô hình sử dụng công nghệ lạc hậu, gây ô nhiễm sang phát triển xanh và bền vững, thì phải chấp nhận thực tế là chi phí đầu tư sẽ cao hơn. Trong bối cảnh công nghệ truyền thống vẫn đang tồn tại và vận hành với chi phí thấp, nếu không có cơ chế hỗ trợ, thì doanh nghiệp áp dụng công nghệ xanh sẽ gặp bất lợi về cạnh tranh.

Một ví dụ cụ thể là cơ chế tín chỉ carbon. Theo tinh thần của Nghị định số 06/2022/NĐ-CP của Chính phủ: Quy định giảm nhẹ phát thải khí nhà kính và bảo vệ tầng ô-zôn ( Nghị định số 119 về sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 06/2022/NĐ-CP ngày 07/1/2022 của Chính phủ quy định giảm nhẹ phát thải khí nhà kính và bảo vệ tầng ô - dôn); và các cập nhật gần đây, chúng ta đang tiến tới việc xác lập thị trường tín chỉ carbon, trong đó các đơn vị phát thải lớn sẽ phải mua tín chỉ để bù đắp. Đây chính là công cụ điều tiết tài chính hiệu quả: đơn vị phát thải nhiều phải trả phí, còn đơn vị đầu tư vào các dự án hấp thụ carbon thì được tạo thêm nguồn thu. Điều này góp phần bù đắp chi phí đầu tư và tăng hiệu quả tài chính cho các dự án xanh.

Tới đây, chúng ta sẽ còn áp dụng các công cụ mạnh hơn như thuế carbon, hạn ngạch phát thải, nhằm định giá đúng tác động môi trường và phân bổ lại nguồn lực. Đây sẽ là những yếu tố kích hoạt để các doanh nghiệp chuyển dịch sang mô hình xanh một cách thực chất hơn.

Nhưng chỉ có chính sách thôi chưa đủ. Điều quan trọng là doanh nghiệp phải thấy được hiệu quả rõ ràng khi đầu tư vào xanh: hiệu quả không nhất thiết phải vượt trội, nhưng phải ổn định, minh bạch, và đủ để doanh nghiệp duy trì hoạt động. Tương tự, nhà đầu tư cũng phải thấy được lợi ích khi mua TPX – từ lợi suất, thanh khoản, cho tới mức độ an toàn của tài sản.

Muốn vậy, Nhà nước cần tiếp tục hoàn thiện các cơ chế điều tiết, cân bằng lợi ích, từ hỗ trợ chi phí đánh giá xanh, ưu đãi thuế cho nhà phát hành, đến khuyến khích nhà đầu tư bằng miễn giảm thuế thu nhập hoặc chiết khấu tín dụng. Đồng thời, cần phát triển hệ sinh thái thị trường – bao gồm các tổ chức xác minh, đơn vị xếp hạng ESG, nền tảng dữ liệu xanh – để tạo điều kiện thuận lợi nhất cho tất cả các bên tham gia.

Do đó, để xu hướng xanh hóa lan tỏa mạnh hơn trong cộng đồng doanh nghiệp, thì gốc rễ vẫn phải là giải bài toán lợi ích một cách thực tế, dài hạn và công bằng. Khi doanh nghiệp thấy rằng mình “không thiệt” khi đầu tư vào dự án xanh, và nhà đầu tư thấy rằng trái phiếu xanh là một tài sản an toàn, hiệu quả – thì khi đó, chúng ta mới có thể kỳ vọng sự phát.

Xin trân trọng cảm ơn ông!

Mai Thư

Nguồn Tài Chính: http://tapchitaichinh.vn/trai-phieu-xanh-kenh-dan-von-chien-luoc-trong-cuoc-chuyen-doi-cua-doanh-nghiep-viet-nam.html
Zalo