TP.HCM cần khung thể chế ổn định, toàn diện sau sáp nhập
Một khung thể chế toàn diện, ổn định… sẽ giúp TP.HCM chủ động khai thác tốt hơn các lợi thế, tiềm năng và cơ hội phát triển.
Việc sáp nhập TP.HCM với Bình Dương và Bà Rịa-Vũng Tàu đã xác định sứ mệnh, vai trò rất lớn của TP.HCM mới. Tuy nhiên, sứ mệnh đó cùng những tác động nhanh, đa diện từ bối cảnh mới đã đặt ra những yêu cầu, điều kiện mới để bảo đảm sự phát triển bền vững của TP, thực hiện hiệu quả mục tiêu, chỉ tiêu cụ thể của Nghị quyết Đại hội Đảng bộ TP.HCM lần thứ I.

TS Bùi Ngọc Hiền, Học viện Cán bộ TP.HCM.
Cần khung thể chế, chính sách ổn định
Một trong những yêu cầu cấp thiết nhất hiện nay với TP.HCM là phải có khung thể chế, chính sách ổn định. Việc chủ động tham mưu, đề xuất sửa đổi, bổ sung Nghị quyết 98 cho thấy quyết tâm, tính chủ động của Đảng bộ và chính quyền TP.HCM trong tháo gỡ các điểm nghẽn thể chế đang và sẽ kìm hãm cũng như nhu cầu về cơ chế, chính sách mới đảm bảo sự phát triển của TP.
Các cơ chế, chính sách được sửa đổi, bổ sung trong Nghị quyết 98 lần này đã được chuẩn bị trên cơ sở rà soát, đánh giá việc thực hiện Nghị quyết 98 hơn hai năm qua, nghiên cứu nhu cầu chính sách từ thực tiễn, đặc biệt là của TP.HCM sau sáp nhập. Đồng thời, cập nhật tinh thần của Nghị quyết 66-NQ/TW và Nghị quyết Đại hội Đảng bộ TP lần thứ I.
Để những nội dung sửa đổi, bổ sung Nghị quyết 98 sớm đi vào cuộc sống, các cơ quan, đơn vị của TP cần chủ động, sáng tạo trong triển khai, vận hành. TP cũng cần sự phối hợp, hỗ trợ của các bộ, ngành Trung ương và sự đồng thuận, chia sẻ của nhân dân, doanh nghiệp.
Việc thực hiện nghị quyết này sẽ thuận lợi, hiệu quả hơn khi có sự cộng hưởng từ Nghị quyết 66, Luật Tổ chức chính quyền địa phương hiện hành và tinh thần đổi mới trong xây dựng, thực thi chính sách, pháp luật.
Về lâu dài, TP.HCM cần nghiên cứu, đề xuất hoàn thiện một khung cơ chế, chính sách bền vững hơn, giúp siêu đô thị này chủ động khai thác tốt hơn các lợi thế, tiềm năng và cơ hội của bối cảnh phát triển mới. Những cơ chế, chính sách đó cần được trao cho TP một cách bền vững, để TP có thể tự chủ, tự quyết và tự chịu trách nhiệm nhiều hơn trong quá trình quản lý, phát triển TP.
Các quyền tự chủ này nên gắn với việc xác lập vai trò kết nối, liên kết vùng; chủ động thí điểm mô hình, phương thức quản lý, phát triển kinh tế - xã hội. Cùng với đó, chủ động xây dựng và thực hiện các giải pháp đột phá trong phát triển giáo dục, y tế, nguồn nhân lực và huy động hiệu quả các nguồn lực để phát triển TP.

TP.HCM về lâu dài cần được trao quyền để chủ động xây dựng và thực hiện các giải pháp đột phá trong phát triển giáo dục, y tế, nguồn nhân lực... để phát triển. Ảnh: BẢO PHƯƠNG
Kích hoạt, khai thác các nguồn lực hiệu quả
Trước khi sáp nhập, tôi đã đặc biệt quan tâm và đề xuất TP.HCM cần có một khung pháp lý riêng để tích hợp, khuôn gói toàn bộ cơ chế, chính sách phục vụ phát triển bền vững TP. Nếu trước đây nhu cầu này đã cần thiết thì nay sau sáp nhập lại càng trở nên cần thiết, cấp bách hơn. TP.HCM cần một khung pháp lý toàn diện hơn, bền vững hơn thay vì hàng loạt cơ chế, chính sách mang tính “xin-cho”, cơi nới, thiếu đồng bộ như hiện nay.
Đã đến lúc cần một văn bản luật, tạm gọi là Luật TP.HCM nhằm tích hợp các cơ chế, chính sách phát triển hiện nay cùng các cơ chế, chính sách mới, chứa đựng tính dự liệu cao để hình thành khung pháp lý thống nhất, bền vững hơn. Điều này nhằm đảm bảo cho TP chủ động, sáng tạo trong khai thác các lợi thế, tiềm năng và cơ hội của bối cảnh mới để phát triển. Theo tôi, một trong những nội dung quan trọng của khung pháp lý này là tạo lập cơ chế nội sinh để TP.HCM có thể chủ động hoặc phối hợp ban hành, hoàn thiện các cơ chế, chính sách.
Xét từ thực tiễn trong thời gian qua, TP.HCM không thiếu nguồn lực, mà thiếu chất dẫn thể chế để kích hoạt, khai thác các nguồn lực đó hiệu quả. Sau sáp nhập, TP.HCM đã lớn hơn về quy mô, rộng hơn về địa bàn, lĩnh vực và mang trọng trách, kỳ vọng lớn hơn. Do đó, TP cần được đặc biệt quan tâm, ưu tiên về không gian chính sách để tiên phong khai mở các mô hình phát triển. Đồng thời, phối hợp cùng các bộ, ngành Trung ương và địa phương kiến tạo không gian thể chế mới, động lực quan trọng để dẫn dắt, tích hợp các nguồn lực phát triển đất nước trong bối cảnh mới.
TP.HCM không thể tiếp tục phát triển với hệ thống cơ chế, chính sách “đắp vá”, “xin-cho”, mà cần một khung thể chế căn cơ, toàn diện và bền vững. Theo tinh thần Nghị quyết 66-NQ/TW, bên cạnh việc hoàn thiện Nghị quyết 98, các cơ quan hữu quan cần sớm nghiên cứu, tính toán để xây dựng và ban hành một luật riêng cho TP.HCM, tạo nền tảng thể chế ổn định, lâu dài và xứng tầm với vai trò, vị thế của TP trong giai đoạn phát triển mới.
Xây dựng luật riêng cho TP.HCM cần lộ trình 3 giai đoạn
Tôi cho rằng dù Nghị quyết 98 và phiên bản “nâng cấp” lần này đã mở ra một không gian thể chế rất mới, mạnh mẽ hơn trước, song về bản chất, đây vẫn là cơ chế thí điểm. Khi quy mô và tầm vóc của TP.HCM đã vượt xa một đô thị thông thường, nhất là sau khi sáp nhập, TP cần một khuôn khổ pháp lý mang tính ổn định, lâu dài và toàn diện hơn một “thể chế đặc biệt cho một TP đặc biệt”.
Về lâu dài, TP.HCM cần hướng tới việc xây dựng một luật riêng tương tự như Hà Nội có Luật Thủ đô nhằm xác lập vị thế trung tâm kinh tế, tài chính, đổi mới sáng tạo của cả nước, đồng thời trao quyền tự chủ thực chất cho TP trên bốn trụ cột tự chủ cốt lõi.
Cụ thể là tự chủ về tài chính - ngân sách, tự chủ về tổ chức bộ máy và nhân sự, tự chủ về quy hoạch - đầu tư, tự chủ về thí điểm chính sách đột phá.
Cùng với bốn trụ cột này, TP.HCM cũng cần được tạo điều kiện để vận dụng và thử nghiệm chính sách vượt khung trong khuôn khổ Hiến pháp, là một TP tự quyết trong khuôn khổ Hiến pháp. TP.HCM hoàn toàn có thể trở thành “cửa ngõ đổi mới thể chế” của Việt Nam Từ đây, các mô hình phát triển tiên tiến được thử nghiệm, nhân rộng ra toàn quốc.
TS Trần Quang Thắng.
Từ nền tảng đó, tôi cho rằng việc xây dựng luật riêng cho TP.HCM là bước đi tất yếu với lộ trình ba giai đoạn.
Giai đoạn 1 (2023 - 2025), triển khai toàn diện và đánh giá kết quả thực hiện Nghị quyết 98 cùng phiên bản nâng cấp. TP cần tổng kết hiệu quả thực thi, chỉ ra những điểm nghẽn còn tồn tại, đồng thời tổ chức các hội thảo, chuyên đề khoa học để hình thành luận cứ chính trị - pháp lý vững chắc cho việc đề xuất Luật riêng. Mục tiêu của giai đoạn này là chứng minh nhu cầu có thật và cấp thiết về một đạo luật dành riêng cho TP.HCM.
Giai đoạn 2 (2025 - 2026), dựa trên kết quả tổng kết, TP.HCM sẽ trình Chính phủ đề xuất đưa luật riêng cho TP.HCM vào chương trình xây dựng luật, pháp lệnh của Quốc hội. Bộ Tư pháp cùng các bộ, ngành trung ương thẩm định, phản biện, đồng thời tổ chức lấy ý kiến rộng rãi của giới chuyên gia, doanh nghiệp và người dân để hoàn thiện hồ sơ. Mục tiêu là đưa dự án Luật vào chương trình lập pháp của Quốc hội năm 2026.
Giai đoạn 3 (2026 - 2027), soạn thảo, thẩm định và trình Quốc hội xem xét, thảo luận tại ít nhất hai kỳ họp. Nếu thuận lợi, luật này có thể được thông qua vào cuối năm 2027 và chính thức có hiệu lực từ năm 2028, thay thế cho cơ chế thí điểm của Nghị quyết 98 hiện nay.
Khi đó, TP.HCM sẽ có một đạo luật ổn định, bền vững và đủ mạnh để chủ động kiến tạo, quản trị và phát triển trong dài hạn; giải quyết triệt để những “điểm nghẽn thể chế”. Đồng thời, hiện thực hóa khát vọng trở thành siêu đô thị hiện đại, thông minh và toàn cầu, đúng như mục tiêu được xác định trong Nghị quyết Đại hội Đảng bộ TP.HCM lần thứ I.
TS TRẦN QUANG THẮNG, Viện trưởng Viện Kinh tế và quản lý TP.HCM

































