Tổng thu trên nghìn tỷ nhưng thu từ NCKH chiếm tỷ trọng nhỏ: Chuyên gia hiến kế

Muốn mở rộng nguồn thu từ NCKH, các trường ĐH không chỉ đầu tư về kinh phí mà còn là đầu tư về CSVC và chính sách khuyến khích đội ngũ tham gia nghiên cứu.

Những năm gần đây, bức tranh tài chính của giáo dục đại học Việt Nam ghi nhận nhiều chuyển biến rõ nét khi xuất hiện ngày càng nhiều trường đạt tổng thu trên nghìn tỷ đồng. Điều này phản ánh phần nào sự phát triển về quy mô, năng lực quản trị và xu hướng tự chủ ngày càng mạnh mẽ của các cơ sở giáo dục đại học.

Tuy nhiên, phần lớn tổng thu của các trường hiện nay vẫn đến từ học phí, trong khi nguồn thu từ nghiên cứu khoa học và chuyển giao công nghệ còn rất hạn chế.

Theo chuyên gia, cơ cấu nguồn thu mất cân đối không chỉ cho thấy các trường vẫn đang phụ thuộc lớn vào người học, mà còn bộc lộ những hạn chế trong việc phát huy tiềm năng nghiên cứu và kết nối với doanh nghiệp, thị trường. Từ đó, đặt ra yêu cầu cấp thiết cho các trường đại học về việc xây dựng mô hình dựa trên tri thức và sáng tạo, trong đó nghiên cứu và chuyển giao công nghệ phải trở thành trụ cột song song với đào tạo.

Tổng thu trên nghìn tỷ nhưng chủ yếu đến từ nguồn học phí là một thực tế đáng lo ngại

Trao đổi với phóng viên Tạp chí điện tử Giáo dục Việt Nam, Tiến sĩ Hoàng Ngọc Vinh - nguyên Vụ trưởng Vụ Giáo dục chuyên nghiệp (Bộ Giáo dục và Đào tạo) nhận định, hiện nay có nhiều trường đại học đạt tổng thu trên nghìn tỷ là tín hiệu cho thấy quy mô hoạt động của giáo dục đại học Việt Nam đang mở rộng và năng lực tự chủ tài chính của nhiều cơ sở đào tạo đã được nâng lên rõ rệt.

 Tiến sĩ Hoàng Ngọc Vinh - nguyên Vụ trưởng Vụ Giáo dục chuyên nghiệp (Bộ Giáo dục và Đào tạo). Ảnh: Nhân vật từng cung cấp

Tiến sĩ Hoàng Ngọc Vinh - nguyên Vụ trưởng Vụ Giáo dục chuyên nghiệp (Bộ Giáo dục và Đào tạo). Ảnh: Nhân vật từng cung cấp

Tuy nhiên, trong cơ cấu tổng thu của hầu hết các trường, nguồn thu chủ yếu vẫn đến từ học phí, trong khi phần thu từ nghiên cứu khoa học, chuyển giao công nghệ lại chiếm tỷ trọng nhỏ. Đây không chỉ là một thực tế đáng lo ngại mà còn phản ánh rõ những hạn chế mang tính hệ thống trong mối quan hệ giữa Nhà trường, doanh nghiệp và cơ chế tài chính dành cho nghiên cứu khoa học hiện nay.

Theo Tiến sĩ Hoàng Ngọc Vinh, bản chất của việc phụ thuộc phần lớn vào học phí là hệ quả của bài toán tài chính khó khăn mà hầu hết các trường đang đối mặt. Bởi trên thực tế, các trường đại học phải chi trả nguồn kinh phí lớn cho hoạt động vận hành, trả lương giảng viên, duy trì cơ sở vật chất, tổ chức đào tạo, trong khi phần ngân sách hoặc nguồn thu dành cho nghiên cứu còn thấp. Đặc biệt, với các khối ngành kỹ thuật - công nghệ, chi phí cho việc sắm sửa thiết bị, máy móc, vật tư phục vụ thí nghiệm, nghiên cứu là vô cùng lớn. Nếu không có nguồn lực mạnh mẽ, trường đại học gần như không thể duy trì được hoạt động nghiên cứu bài bản, lâu dài.

Hơn nữa, khi học phí đã ở mức cao, việc tăng thêm để bù đắp cho nghiên cứu là điều khó thực hiện, bởi điều này sẽ gây áp lực cho người học và có thể tạo ra phản ứng trái chiều của xã hội.

Cùng bàn vấn đề này, Phó Giáo sư, Tiến sĩ Bùi Thị An (Đại biểu Quốc hội khóa XIII) nhận định, trường đại học không chỉ là nơi truyền thụ tri thức mà còn phải trở thành trung tâm nghiên cứu, đổi mới sáng tạo. Do đó, hai chức năng giảng dạy và nghiên cứu cần được gắn kết chặt chẽ với nhau, bởi chỉ khi có nghiên cứu mạnh thì giảng dạy mới có chiều sâu, người học mới được tiếp cận với kiến thức rộng và ngược lại, giảng dạy hiệu quả cũng sẽ tạo ra nguồn nhân lực phục vụ hoạt động nghiên cứu. Tuy nhiên, trên thực tế, phần lớn tổng thu của các trường đại học hiện nay vẫn chủ yếu đến từ học phí của người học, trong khi nguồn thu từ nghiên cứu khoa học còn khiêm tốn. Điều đó cho thấy hoạt động nghiên cứu, đặc biệt là nghiên cứu ứng dụng và thương mại hóa kết quả nghiên cứu chưa thực sự trở thành trụ cột tài chính của các trường.

Theo Phó Giáo sư, Tiến sĩ Bùi Thị An, muốn mở rộng nguồn thu từ nghiên cứu khoa học, trước hết các trường đại học phải đầu tư đúng mức cho hoạt động này. Trong đó, đầu tư không chỉ về mặt kinh phí mà còn là đầu tư về con người, cơ sở vật chất, phòng thí nghiệm, thiết bị nghiên cứu và quan trọng hơn là cơ chế, chính sách khuyến khích đội ngũ giảng viên, nhà khoa học tham gia nghiên cứu. Nếu không có sự đầu tư ban đầu, các trường đại học rất khó để kỳ vọng có được những sản phẩm khoa học có giá trị thực tiễn và khả năng sinh lời.

 Phó Giáo sư, Tiến sĩ Bùi Thị An (Đại biểu Quốc hội khóa XIII). Ảnh: Quochoi.vn

Phó Giáo sư, Tiến sĩ Bùi Thị An (Đại biểu Quốc hội khóa XIII). Ảnh: Quochoi.vn

"Mặc dù Nhà nước và các trường đã dành ngân sách đáng kể cho nghiên cứu, nhưng việc thương mại hóa sản phẩm vẫn còn nhiều rào cản. Trong đó điểm nghẽn lớn nhất nằm ở khâu kết nối giữa nhà trường với doanh nghiệp. Nhiều đề tài nghiên cứu phần nhiều vẫn mang nặng tính hàn lâm, thiếu gắn kết với nhu cầu thực tế của thị trường, dẫn đến việc kết quả nghiên cứu khó được ứng dụng.

Do đó, muốn khắc phục tình trạng này, trước hết các trường cần nâng cao chất lượng nghiên cứu. Trong đó, người đứng đầu cơ sở giáo dục đại học phải có tầm nhìn chiến lược, chỉ đạo các đơn vị chuyên môn tập trung xây dựng những nhóm nghiên cứu mạnh, lựa chọn các hướng nghiên cứu có tiềm năng ứng dụng cao, gắn với các lĩnh vực mà doanh nghiệp và xã hội đang có nhu cầu.

Ngoài ra, chất lượng đề tài phải được đặt lên hàng đầu, bởi chỉ có những sản phẩm khoa học tốt, có giá trị và hiệu quả thực tế thì mới được thị trường chấp nhận. Nếu chất lượng nghiên cứu không đủ mạnh, thì doanh nghiệp sẽ không quan tâm, bởi họ có quyền lựa chọn sản phẩm phù hợp hơn với nhu cầu của mình”, bà An nhấn mạnh.

Trường đại học cần xây dựng một hệ sinh thái nghiên cứu khoa học, đổi mới sáng tạo

Theo bà An, trường đại học hiện nay cần có cơ chế để khuyến khích và bảo vệ quyền lợi của giảng viên, nhà nghiên cứu trong quá trình chuyển giao kết quả nghiên cứu. Bởi trên thực tế, nhiều giảng viên, nhà nghiên cứu vẫn e dè khi hợp tác với doanh nghiệp vì chưa rõ ràng về quyền sở hữu trí tuệ, quyền lợi tài chính hay cơ chế phân chia lợi nhuận. Song song với đó, các trường cũng cần chủ động xây dựng bộ phận trung gian như trung tâm chuyển giao công nghệ, vườn ươm doanh nghiệp, hoặc các công ty khởi nghiệp để hỗ trợ đưa sản phẩm nghiên cứu ra thị trường, kết nối với doanh nghiệp và các quỹ đầu tư.

"Khi nghiên cứu thực sự gắn với thực tiễn và sản phẩm khoa học được thị trường đón nhận, nguồn thu từ hoạt động này sẽ không chỉ góp phần tăng tổng thu cho trường, mà còn tạo động lực để giảng viên và sinh viên tích cực nghiên cứu, đổi mới sáng tạo. Đó cũng là cách để các trường khẳng định uy tín, vị thế trong hệ thống giáo dục đại học và trong nền kinh tế tri thức.

Cơ sở giáo dục đại học muốn khẳng định vị thế và nâng cao thương hiệu thì buộc phải có năng lực nghiên cứu mạnh. Do vậy, con đường duy nhất để mở rộng nguồn thu bền vững cho các trường đại học hiện nay không chỉ nằm ở việc tăng học phí, mà còn là nâng cao chất lượng nghiên cứu, thúc đẩy hợp tác với doanh nghiệp và chuyển giao tri thức ra xã hội, biến kết quả nghiên cứu thành những giá trị thiết thực phục vụ phát triển kinh tế - xã hội", bà An nêu quan điểm.

Đồng quan điểm trên, Tiến sĩ Hoàng Ngọc Vinh cho biết, hiện nay, phần lớn doanh nghiệp trong nước là doanh nghiệp nhỏ và vừa, có quy mô vốn cũng như năng lực công nghệ còn hạn chế. Các doanh nghiệp này thường chú trọng đến lợi nhuận ngắn hạn, ít dành nguồn lực cho hoạt động nghiên cứu, phát triển (R&D) hoặc hợp tác với các trường đại học để đặt hàng nghiên cứu. Khi nhu cầu từ phía doanh nghiệp không cao, các trường đại học dù có tiềm năng vẫn khó tìm được đầu ra cho kết quả nghiên cứu.

 Ảnh minh họa: website Trường Đại học Quốc tế (Đại học Quốc gia Hà Nội)

Ảnh minh họa: website Trường Đại học Quốc tế (Đại học Quốc gia Hà Nội)

Bên cạnh đó, phần lớn doanh nghiệp trong nước chưa hình thành thói quen sử dụng kết quả nghiên cứu của các viện, trường trong quá trình sản xuất - kinh doanh, mà vẫn ưu tiên mua công nghệ sẵn có hoặc dùng giải pháp thiết kế riêng. Chính điều này khiến hoạt động nghiên cứu trong các trường đại học thiếu động lực thị trường, khó thương mại hóa sản phẩm và chưa thể trở thành nguồn thu ổn định, bền vững như kỳ vọng.

“Ngoài ra, sự hợp tác giữa Nhà trường và doanh nghiệp ở Việt Nam còn thiếu chặt chẽ, chủ yếu dừng ở mức tổ chức thực tập, tuyển dụng sinh viên, chưa phát triển thành hợp tác nghiên cứu, chuyển giao công nghệ thực chất. Nguyên nhân một phần là do cơ chế, chính sách khuyến khích chưa rõ ràng, thiếu những ưu đãi thuế hoặc hỗ trợ cụ thể để doanh nghiệp mạnh dạn đặt hàng nghiên cứu.

Mặt khác, năng lực nghiên cứu của đội ngũ giảng viên trong nhiều trường đại học cũng còn hạn chế. Không ít giảng viên vẫn nặng về giảng dạy, chưa dành đủ thời gian cho nghiên cứu, hoặc chưa có môi trường, điều kiện, cơ chế khuyến khích để theo đuổi các công trình nghiên cứu dài hạn. Một số giảng viên làm nghiên cứu chủ yếu để phục vụ yêu cầu nâng hạng, xét chức danh giáo sư, phó giáo sư, chứ chưa hướng đến sản phẩm ứng dụng để thương mại hóa ra thị trường. Vì vậy, dù số lượng đề tài nghiên cứu mỗi năm không ít, nhưng phần lớn dừng ở cấp cơ sở, giá trị ứng dụng chưa cao”, Tiến sĩ Hoàng Ngọc Vinh nêu quan điểm.

Để mở rộng nguồn thu từ nghiên cứu khoa học, Tiến sĩ Hoàng Ngọc Vinh bày tỏ cần có sự đồng bộ từ Nhà nước, doanh nghiệp và toàn hệ thống giáo dục đại học. Cụ thể, Nhà nước cần có chính sách hỗ trợ mạnh mẽ hơn cho hoạt động nghiên cứu như hình thành quỹ nghiên cứu quốc gia dành riêng cho các trường đại học; cơ chế khuyến khích doanh nghiệp đặt hàng và trích kinh phí cho R&D; giảm bớt thủ tục hành chính trong việc quản lý, phê duyệt và nghiệm thu đề tài. Khi thủ tục gọn nhẹ, tài chính minh bạch, giảng viên và Nhà trường sẽ tự tin hơn trong việc triển khai nghiên cứu thực chất, hướng tới các sản phẩm có giá trị thực tiễn.

Bên cạnh đó, trường đại học cần thay đổi tư duy quản trị, không nên coi nghiên cứu chỉ là hoạt động phụ trợ cho giảng dạy mà phải xem đó là trụ cột song song, là nguồn tạo nên thương hiệu và uy tín của trường. Ngoài ra, các trường cần xây dựng chiến lược phát triển nghiên cứu dài hạn, đầu tư có trọng tâm vào những lĩnh vực thế mạnh, hình thành nhóm nghiên cứu mạnh, phòng thí nghiệm trọng điểm, trung tâm đổi mới sáng tạo gắn với nhu cầu của xã hội và chủ động mở rộng hợp tác quốc tế, liên kết với các viện nghiên cứu, doanh nghiệp trong và ngoài nước để huy động nguồn lực.

“Để nghiên cứu khoa học và chuyển giao công nghệ trở thành nguồn thu thực sự, trường đại học cần xây dựng một hệ sinh thái đổi mới sáng tạo. Khi Nhà trường vừa là nơi tạo ra tri thức, vừa là ‘doanh nghiệp’ có thể thương mại hóa sản phẩm nghiên cứu, tỷ trọng tổng thu từ nghiên cứu trong tổng thu của trường mới thực sự được nâng lên, giúp đại học Việt Nam bước sang giai đoạn phát triển bền vững, không còn phụ thuộc lớn vào học phí”, Tiến sĩ Hoàng Ngọc Vinh nhấn mạnh.

Yên Đan

Nguồn Giáo Dục VN: https://giaoduc.net.vn/tong-thu-tren-nghin-ty-nhung-thu-tu-nckh-chiem-ty-trong-nho-chuyen-gia-hien-ke-post255100.gd