Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh với 'đổi mới' và bài học 'dựa vào dân'

Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh là người học trò xuất sắc của Chủ tịch Hồ Chí Minh, một lãnh đạo có tầm nhìn, một tấm gương kiên trung. Cuộc đời của ông đã để lại những di sản đồ sộ, những bài học kinh nghiệm quý báu, nhất là bài học tin dân, dựa vào dân, cũng như phát huy vai trò người đứng đầu, tinh thần dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm.

Từ bước ngoặt “Hội nghị Đà Lạt” đến công cuộc đổi mới

Cuộc đời, sự nghiệp của Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh (tên thân mật là Mười Cúc) có thể nói là gắn bó máu thịt với cách mạng miền Nam, với Đảng bộ và nhân dân Sài Gòn – Chợ Lớn – Gia Định – TP.HCM. Trong hai cuộc kháng chiến của dân tộc ta kéo dài 30 năm, ông từng là Bí thư Đặc khu ủy Sài Gòn – Gia Định; Bí thư Trung ương Cục miền Nam,...

Ngay khi đất nước được thống nhất, ông Nguyễn Văn Linh với cương vị là Bí thư Thành ủy TP.HCM luôn bám sát thực tiễn, tổng kết thực tiễn những thí điểm về đổi mới cách làm có hiệu quả, rút ra những bài học kinh nghiệm để lãnh đạo TP.HCM tiến lên, vượt qua gian nan, thử thách.

Ông Phạm Chánh Trực, nguyên Phó Bí thư Thành ủy TP.HCM (ảnh Hà Khánh)

Ông Phạm Chánh Trực, nguyên Phó Bí thư Thành ủy TP.HCM (ảnh Hà Khánh)

Theo ông Phạm Chánh Trực, nguyên Phó Bí thư Thành ủy TP.HCM, minh chứng rõ nhất thể hiện phẩm chất của con người cộng sản kiên trung, sáng tạo, kiên quyết hành động là Hội nghị Đà Lạt. Đây được xem là bước ngoặt để khởi xướng công cuộc đổi mới đất nước.

Cụ thể, khi biết các lãnh đạo cấp cao đang ở Đà Lạt vào tháng 7/1983, Bí thư Thành ủy TP.HCM Nguyễn Văn Linh cùng nhiều giám đốc xí nghiệp xin gặp để tháo gỡ cơ chế cho thành phố phát triển.

Chính thực tiễn ở TP.HCM và nhiều địa phương khác đã dần hình thành để tiến tới xác định phải đổi mới. Từ Hội nghị Đà Lạt đã có một tư duy hành động thực tế từ cơ sở, đổi mới từ cơ sở và từ đó “phá rào”.

Theo ông Phạm Chánh Trực, đó là kết tinh từ thực tiễn dám xé rào, bung ra mà người tiền nhiệm Võ Văn Kiệt (Bí thư Thành ủy TP.HCM từ tháng 12/1976 – tháng 4/1982) đã làm từ những ngày đầu thống nhất, tạo một cơ sở thực tiễn, tiền đề lý luận để được “đẩy lên tới thượng đỉnh”, dẫn tới quyết định “phải đổi mới”.

"Giám đốc làm kế hoạch A, B, C báo cáo cho bác Trường Chinh, bác Phạm Văn Đồng, bác Võ Chí Công và một số lãnh đạo nữa. Khi đã nghe hết, đi trực tiếp thực tế rồi thì các đồng chí đó nói “Làm vậy là được, là phải thay đổi”. Cho nên nói việc xé rào bung ra là cơ sở để Trung ương có thể nghiên cứu, trở thành tiền đề lý luận cho đường lối đổi mới", ông Phạm Chánh Trực khẳng định.

Sau đó, cũng chính ông Nguyễn Văn Linh trong thời gian ngắn đã cùng với các lãnh đạo khác xây dựng văn kiện Đại hội VI với những thay đổi quan trọng.

Tại Đại hội Đảng lần thứ VI vào tháng 12/1986, ông Nguyễn Văn Linh được bầu làm Tổng Bí thư. Ông kiên định triển khai đồng bộ sự nghiệp đổi mới đất nước, lấy đổi mới kinh tế làm trọng tâm, tiến hành đổi mới hệ thống chính trị một cách vững chắc.

Chính ông Nguyễn Văn Linh đã khơi lên ngọn lửa dám nghĩ, dám làm của một địa phương có thực tiễn lớn và sinh động như TP.HCM. Từ thực tiễn đó đã hình thành nên cơ chế, chính sách không chỉ cho thành phố mà là cho cả nước.

Có thể nói, trong hai lần làm Bí thư Thành ủy TP.HCM, ông Nguyễn Văn Linh đã có những đóng góp quan trọng, như PGS.TS Hà Minh Hồng, nguyên Trưởng Khoa Lịch sử, Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn TP.HCM nhìn nhận: “Nếu không phải ông Nguyễn Văn Linh, không có ông Nguyễn Văn Linh thì chúng ta không hình dung ra công cuộc đổi mới sẽ bắt đầu như thế nào?”

PGS.TS Hà Minh Hồng (ảnh V.Đ)

PGS.TS Hà Minh Hồng (ảnh V.Đ)

PGS.TS Hà Minh Hồng đánh giá, bây giờ nhìn lại có thể thấy, việc đổi mới là bình thường nhưng khi so sánh với những cải tổ, cải cách của các nước đương thời, chúng ta không học theo ai, không đi sau ai cả… Vì thế tư duy, tầm nhìn của Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh càng được thể hiện rõ.

"Từ thực tế của TP.HCM và các địa phương khác trong cả nước nhưng thực tế từ cơ sở, đường đi nước bước, từ những cái thiết thực của người dân…, chúng ta thấy đó là đóng góp mà nếu không có đồng chí Nguyễn Văn Linh thì không hình dung ra công cuộc đổi mới", PGS.TS Hà Minh Hồng cho biết.

Dựa vào dân, nói lên tiếng nói nhân dân với ngòi bút N.V.L

Ngoài tư cách là một lãnh đạo đổi mới, Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh trong mắt mọi người xung quanh còn được biết đến là một lãnh đạo giản dị, dễ gần. Ông Mười Cúc còn được mọi người gọi vui là “ông già căn cơ” bởi tác phong làm việc rất kỹ lưỡng, có lý, có tình, có nghĩa.

Nhắc đến chi tiết này, PGS.TS Phan Xuân Biên, nguyên Trưởng ban Tư tưởng văn hóa Thành ủy TP.HCM cho biết, ông Mười Cúc làm gì cũng suy nghĩ phải có lý, có lẽ, có tình, có nghĩa, tính toán đầy đủ. Không ảo tưởng lạc quan tếu mà làm cái gì cũng căn cơ.

PGS.TS Phan Xuân Biên (ảnh Hà Khánh)

PGS.TS Phan Xuân Biên (ảnh Hà Khánh)

Có cơ hội tham dự các cuộc họp quan trọng có ông Nguyễn Văn Linh tham dự, PGS.TS Phan Xuân Biên cho biết, ông Nguyễn Văn Linh là một lãnh đạo thể hiện rõ quan điểm phải bám sát cơ sở, quần chúng. “Đây là những cái cốt lõi, nền tảng tạo nên những thành công dưới sự lãnh đạo của bác Nguyễn Văn Linh”.

Điều này thể hiện rõ khi ông Mười Cúc làm Bí thư Thành ủy TP.HCM. Với vai trò là người đứng đầu Đảng bộ TP.HCM, ông Nguyễn Văn Linh chỉ đạo đặc biệt quan tâm đến cơ sở, có nghĩa là tin tưởng sức mạnh quần chúng, người dân của mình.

Quan điểm “bám sát cơ sở, dựa vào dân” lại càng rõ ràng khi ông Nguyễn Văn Linh lên làm Tổng Bí thư. Khi đó, ông Nguyễn Văn Linh còn có một điều đặc biệt ấn tượng là với vai trò của một người viết báo với bút danh “N.V.L” (sau này ông Mười Cúc lý giải là “Nói và Làm”), loạt bài viết trong mục “Những việc cần làm ngay” trên báo Nhân Dân để truyền tải nhiều thông điệp.

Từ tháng 5/1987 – tháng 9/1990, 31 bài báo được đăng trong chuyên mục "Những việc cần làm ngay", đã nói thẳng, nói thật, lên án mạnh mẽ các hiện tượng tiêu cực, các tệ nạn và đặc biệt là dám nhìn thẳng vào sự suy thoái về tư tưởng chính trị, bệnh giáo điều, bảo thủ… của các tổ chức đảng, đảng viên. Các bài viết ngắn nhưng lập luận vững chắc, sâu sát thực tiễn đã nhận được sự quan tâm rất lớn của cán bộ, đảng viên và đặc biệt là nhân dân.

Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh đọc diễn văn bế mạc Đại hội Đảng lần thứ VI ngày 18/12/1986. (Ảnh: Minh Đạo/TTXVN)

Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh đọc diễn văn bế mạc Đại hội Đảng lần thứ VI ngày 18/12/1986. (Ảnh: Minh Đạo/TTXVN)

Theo PGS.TS Phan Xuân Biên, Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh đã biết dựa vào báo chí, phương tiện thông tin đại chúng để khuếch trương chủ trương, chính sách của Đảng đến với đông đảo quần chúng. Qua đó truyền đi một thông điệp là: “Sự nghiệp cách mạng, tất cả mọi việc từ đấu tranh giành độc lập dân tộc hay xây dựng đất nước, đặc biệt là công cuộc phòng chống tham nhũng thì phải có sự tham gia của đông đảo quần chúng nhân dân. Nếu không có sự tham gia của nhân dân, không từ nhân dân thì không thể thành công.”

"Rõ ràng những việc bác Nguyễn Văn Linh làm tưởng chừng chỉ là những bài báo thôi, nhưng thực chất ở đây là phương tiện để từ niềm tin, đánh giá sự nghiệp cách mạng, tin ở quần chúng thì mới làm thế này để phát huy sức mạnh quần chúng. Thì nó có giá trị cao là ở chỗ đó", ông Phan Xuân Biên khẳng định.

Có thể khẳng định, trong suốt 70 năm hoạt động cách mạng sôi nổi, trải qua muôn vàn khó khăn, thử thách, Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh đã để lại cho dân tộc những bài học kinh nghiệm quý báu. Trong đó, quan trọng nhất là bài học tin dân, dựa vào dân, phát huy vai trò người đứng đầu, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm. Bài học ấy đến nay vẫn còn nguyên giá trị và được các thế hệ lãnh đạo tiếp nối.

Hà Khánh/VOV-TP.HCM

Nguồn VOV: https://vov.vn/chinh-tri/tong-bi-thu-nguyen-van-linh-voi-doi-moi-va-bai-hoc-dua-vao-dan-post1210607.vov
Zalo