Tìm hướng đi bền vững

Sau những năm 'phát triển nóng' rồi rơi vào khủng hoảng thừa, cây bơ ở Lâm Đồng đang tìm lại hướng đi bền vững hơn.

Vườn bơ “sống khỏe” giữa thời giá bấp bênh của ông Nguyễn Kiến Phương, xã Quảng Phú

Vườn bơ “sống khỏe” giữa thời giá bấp bênh của ông Nguyễn Kiến Phương, xã Quảng Phú

Hướng đi mới cho cây bơ

Giữa lúc nhiều nông hộ “quay lưng” với cây bơ vì giá rớt thảm, anh Nguyễn Kiến Phương ở xã Quảng Phú (Lâm Đồng) tìm cho mình hướng đi từ cây bơ. Trên 10 ha đất, anh Phương trồng các giống bơ ngoại như: Hass, Reed, Pinkerton - những giống đang chiếm lĩnh phần lớn thị phần thế giới.

Anh kể, ban đầu cũng lo, vì giống ngoại khó chăm, tốn kém, lại đòi hỏi kỹ thuật cao. Nhưng nhờ chịu khó học hỏi, đầu tư hệ thống tưới nhỏ giọt và canh tác theo tiêu chuẩn VietGAP, vườn bơ của anh dần đi vào ổn định. “Giống bơ ngoại chín rải vụ, vỏ dày, ít hư, bán lúc nào cũng có giá. Nhiều năm nay, doanh nghiệp ở Gia Lai bao tiêu nên tôi không phải lo đầu ra. Cứ giữ chất lượng tốt thì giá luôn ổn định”, anh Phương nói, ánh mắt rạng rỡ.

Không chỉ trồng, anh Phương còn cùng bà con trong vùng lập Hợp tác xã Bơ Núi Lửa Nâm Kar, gắn thương hiệu với Công viên địa chất toàn cầu UNESCO Đắk Nông. Bơ của hợp tác xã đã được công nhận OCOP 4 sao - một dấu mốc quan trọng giúp sản phẩm vươn ra thị trường rộng hơn. “Chúng tôi không chạy theo phong trào nữa, mà làm nông như làm hàng hóa thật sự. Mỗi cây bơ đều có mã số vùng trồng, được theo dõi kỹ lưỡng”, anh nói.

Nếu anh Phương chọn con đường “làm kỹ để sống lâu”, thì ở xã Phúc Thọ Lâm Hà, chị Nguyễn Thị Trang lại chọn cách “làm khác để tồn tại”. Gắn bó với cây bơ nhiều năm, chị Trang thấu hiểu nỗi khổ của người trồng khi giá xuống thấp, thương lái ép, bơ chín rụng đầy vườn mà không bán được.

Kho cấp đông của chị Nguyễn Thị Trang ở xã Phúc Thọ Lâm Hà

Kho cấp đông của chị Nguyễn Thị Trang ở xã Phúc Thọ Lâm Hà

Từ trăn trở đó, chị quyết định đầu tư gần 2 tỷ đồng để xây dựng kho sơ chế và cấp đông bơ ngay tại vùng nguyên liệu, sức chứa khoảng 60 tấn. “Lúc đầu nhiều người nói tôi liều, nhưng nếu ai cũng ngồi chờ thương lái thì làm sao cây bơ sống nổi”, chị cười.

Kho cấp đông của chị hiện vận hành ổn định. Bơ được chọn lọc, làm sạch, cắt miếng, cấp đông nhanh rồi bảo quản lạnh, giữ nguyên độ thơm ngon tự nhiên, chất lượng. “Thị trường bơ tươi lúc cao lúc thấp, người trồng dễ nản. Làm cấp đông là cách kéo dài tuổi thọ cho quả bơ, giúp người nông dân có thời gian thở”, chị Trang chia sẻ. “Bơ sơ chế, cấp đông không chỉ để bán trong nước, mà còn có thể làm nguyên liệu cho xuất khẩu, cho ngành mỹ phẩm hay đồ uống. Cây bơ vẫn sống khỏe, chỉ cần mình biết làm đúng cách”, chị nói chắc nịch.

Mục tiêu đến năm 2030, tỉnh Lâm Đồng nâng tỷ lệ bơ đưa vào chế biến lên 25 - 30%, tập trung vào các sản phẩm giá trị cao như: dầu bơ, bơ cấp đông, bơ sấy. Tỉnh thúc đẩy chuẩn hóa vùng trồng, áp dụng VietGAP, GlobalGAP, hữu cơ và truy xuất nguồn gốc điện tử - điều kiện bắt buộc để mở rộng xuất khẩu.

Trồng bơ theo tiểu vùng khí hậu, mở lối ra thị trường

Theo định hướng đến năm 2030, Lâm Đồng sẽ ổn định diện tích cây bơ khoảng 17.500 ha. Ngành nông nghiệp xác định tiểu vùng khí hậu chủ lực để phát triển giống bơ phù hợp. Ở vùng khí hậu mát mẻ (độ cao trên 1.000 m, nhiệt độ 12 - 28°C) như: Di Linh, Bảo Lâm, Đắk Glong, Đắk Song, tỉnh ưu tiên trồng giống Hass và Pinkerton có vỏ sần, thịt quả béo ngậy, chất lượng cao, phục vụ xuất khẩu.

Vùng thấp hơn như: Lâm Hà, Đức Trọng, Krông Nô, Đắk Mil tập trung vào các giống 034, Booth, bơ sáp và Mexico, vừa thích nghi tốt với điều kiện khí hậu, vừa bảo đảm năng suất ổn định, phục vụ thị trường nội địa quanh năm.

Cùng với đó, tỉnh định hướng chuẩn hóa vùng trồng theo VietGAP, GlobalGAP, hữu cơ, gắn với truy xuất nguồn gốc điện tử để đáp ứng yêu cầu thị trường trong và ngoài nước.

Tỉnh Lâm Đồng khuyến khích phát triển bơ trái vụ ở những vùng phù hợp nhằm giảm áp lực mùa rộ. Cây bơ cũng được khuyến khích trồng xen trong vườn cây công nghiệp, giúp tận dụng đất, tăng thu nhập cho nông hộ.

Đáng chú ý, tỉnh đang hợp tác với đối tác New Zealand thông qua SAM Agritech để mở rộng vùng trồng giống Hass tại các tiểu vùng khí hậu phù hợp - hướng đến sản phẩm đạt chuẩn xuất khẩu sang các thị trường cao cấp.

Để khắc phục những điểm nghẽn trong khâu bảo quản và logistics - vốn được xem là “nút thắt cổ chai” của ngành bơ hiện nay, tỉnh Lâm Đồng đang triển khai nhiều giải pháp đồng bộ. Trong đó, trọng tâm là khuyến khích xã hội hóa đầu tư kho lạnh và phương tiện vận chuyển chuyên dụng, hỗ trợ doanh nghiệp tiếp cận nguồn vốn vay ưu đãi và chuyển giao công nghệ bảo quản sau thu hoạch.

Cùng với đó, ngành nông nghiệp định hướng hợp tác với các doanh nghiệp ứng dụng công nghệ hiện đại giúp kéo dài thời gian bảo quản bơ từ 3 - 7 ngày hiện nay lên 30 - 40 ngày mà vẫn giữ được chất lượng quả. Việc phát triển hệ thống kho lạnh, sơ chế - đóng gói đạt chuẩn quốc tế không chỉ giúp giảm hao hụt 20 - 30% sản lượng, mà còn tạo nền tảng cho xuất khẩu và chế biến sâu, góp phần xây dựng chuỗi giá trị bơ bền vững hơn.

Theo ông Hà Ngọc Chiến - Chi Cục trưởng Chi cục Trồng trọt và Bảo vệ thực vật, rào cản lớn nhất của cây bơ hiện nay là logistics, chế biến và tiêu chuẩn chất lượng. Khi tháo gỡ được 3 điểm này, bơ Lâm Đồng hoàn toàn có thể bước ra thế giới với vị thế mới.

Ông Chiến cho biết, thời gian tới, tỉnh sẽ ổn định diện tích, tập trung nâng chất lượng và đầu tư công nghệ bảo quản, đồng thời hỗ trợ doanh nghiệp, hợp tác xã xây dựng chuỗi liên kết từ sản xuất - chế biến - tiêu thụ. Cùng với đó, địa phương đang xúc tiến đăng ký chỉ dẫn địa lý cho giống bơ 034 và xây dựng thương hiệu “Bơ Lâm Đồng”, hướng tới hình ảnh sản phẩm xanh, an toàn và đạt chuẩn xuất khẩu.

Tỉnh Lâm Đồng đang tập trung chuẩn hóa vùng trồng, chọn giống phù hợp, đẩy mạnh chế biến sâu và mở rộng kết nối tiêu thụ, đưa cây bơ trở lại quỹ đạo phát triển bền vững. Trách nhiệm với cây bơ hôm nay không chỉ nằm ở người nông dân, mà còn là bài toán chung của toàn ngành nông nghiệp - từ quy hoạch, giống, kỹ thuật cho đến thị trường.

Khi quy hoạch gắn liền với nhu cầu thị trường, sản xuất song hành cùng công nghệ, và người trồng được đặt đúng vị trí trong chuỗi giá trị, cây bơ sẽ bước ra khỏi vòng xoáy “được mùa mất giá”. Cây bơ khi ấy không còn là “cơn sốt nhất thời” của một giai đoạn, mà trở thành cây trồng mang lại thu nhập ổn định, sinh kế bền vững cho nông dân. Xa hơn, bơ sẽ trở thành thương hiệu nông sản đặc trưng của vùng đất Lâm Đồng.

Tỉnh Lâm Đồng có khoảng 84 cơ sở sơ chế và chế biến bơ, gồm 4 doanh nghiệp lớn và 80 cơ sở nhỏ lẻ, với công suất 15.000 - 18.000 tấn/năm, tương đương chỉ 15% tổng sản lượng.

Đức Hùng - Hồng Thoan .

Nguồn Lâm Đồng: https://baolamdong.vn/tim-huong-di-ben-vung-400565.html