Tìm giải pháp cải thiện chi phí cho doanh nghiệp khi xuất khẩu vào Hoa Kỳ

Chuyên gia nhận định doanh nghiệp có thể 'lội ngược dòng' nếu nắm rõ nhu cầu thị trường và tìm được giải pháp tối ưu chi phí, trong bối cảnh xuất khẩu vào Hoa Kỳ đang đối mặt nhiều thách thức.

Các chuyên gia chia sẻ giải pháp tối ưu chi phí cho doanh nghiệp tại hội nghị. (Ảnh: Xuân Anh/TTXVN)

Các chuyên gia chia sẻ giải pháp tối ưu chi phí cho doanh nghiệp tại hội nghị. (Ảnh: Xuân Anh/TTXVN)

Xuất khẩu vào Hoa Kỳ đang đối diện nhiều thách thức cả về thuế quan và logistics, tuy nhiên doanh nghiệp vẫn có cơ hội để “lội ngược dòng” nếu nắm rõ nhu cầu thị trường và tìm được giải pháp tối ưu hóa chi phí.

Đây là nội dung được các chuyên gia chia sẻ tại Hội nghị “Giải pháp Logistics cho doanh nghiệp xuất nhập khẩu đối mặt với thuế quan Hoa Kỳ - Thách thức và cơ hội” do Trung tâm Xúc tiến Thương mại và Đầu tư Thành phố Hồ Chí Minh (ITPC) tổ chức ngày 18/6.

Phó Giám đốc ITPC Hồ Thị Quyên cho biết: Hoạt động kinh tế đã khởi sắc trở lại, với kim ngạch xuất khẩu gần đây tăng trưởng đáng khích lệ.

Theo số liệu của Cục Thống kê (Bộ Tài chính), năm tháng đầu năm 2025, kim ngạch xuất khẩu hàng hóa đạt 180,23 tỷ USD, tăng 14% so với cùng kỳ năm trước.

Về thị trường, Hoa Kỳ tiếp tục là đối tác thương mại lớn nhất của Việt Nam. Trong năm tháng đầu năm 2025, tổng kim ngạch xuất nhập khẩu giữa hai nước đạt 57,2 tỷ USD; đặc biệt, Việt Nam duy trì vị thế xuất siêu sang Hoa Kỳ với 49,9 tỷ USD, tăng 28,5% so với cùng kỳ năm trước.

Trong các lĩnh vực, logistics là một trong những ngành đóng góp vào sự phát triển chung của kinh tế quốc gia thông qua việc cung cấp dịch vụ vận chuyển hàng hóa và quản lý chuỗi cung ứng.

 Bà Hồ Thị Quyên, Phó Giám đốc ITPC, phát biểu tại hội nghị. (Ảnh: Xuân Anh/TTXVN)

Bà Hồ Thị Quyên, Phó Giám đốc ITPC, phát biểu tại hội nghị. (Ảnh: Xuân Anh/TTXVN)

Năm 2025 đánh dấu bước chuyển mình mạnh mẽ của ngành logistics Việt Nam khi tận dụng hiệu quả cơ hội từ làn sóng chuyển dịch chuỗi cung ứng toàn cầu, nhưng đồng thời cũng đối mặt với những thách thức không nhỏ từ chính sách thuế đối ứng của Hoa Kỳ.

Vụ Thị trường châu Âu-châu Mỹ (Bộ Công Thương) nhận định: Thuế đối ứng, dù được thiết kế để điều chỉnh cán cân thương mại, đang tạo ra những tác động đáng kể đến hệ thống logistics toàn cầu và Việt Nam cũng không tránh khỏi những ảnh hưởng này.

Các công ty tích cực tìm cách đa dạng hóa nguồn cung, dẫn đến sự thay đổi trong các tuyến vận tải biển, hàng không và đường bộ.

Tại các cảng bờ Tây nước Hoa Kỳ, đặc biệt là cảng Los Angeles với hoạt động thương mại nhộn nhịp nhất, đã chứng kiến mức giảm 9% lượng container trong tháng 5/2025 so với cùng kỳ năm trước.

Chi phí vận tải container hoặc hàng không, phí bảo hiểm và nhu cầu lưu trữ hàng tồn kho dự phòng đang có xu hướng tăng. Trong đó, chi phí vận chuyển đường biển tăng rất cao kể từ đầu năm đến nay.

Cụ thể, chi phí vận chuyển đến Hoa Kỳ đã tăng từ 1.850 USD lên 2.950 USD/container đối với cảng biển khu vực bờ Tây và tăng từ hơn 2.000 USD lên gần 5.000 USD/container đối với cảng biển khu vực bờ Đông.

Thực tế này không chỉ là thách thức, mà còn là động lực để Việt Nam có những bước chuẩn bị kỹ càng trong lĩnh vực logistics để chủ động đón làn sóng dịch chuyển từ Trung Quốc sang Asean.

Thông tin tổng quan về thị trường Hoa Kỳ, ông Nunzio De Filippis, Giám đốc điều hành Cargotrans USA nhấn mạnh rằng, chính sách thương mại của Hoa Kỳ đang dần dịch chuyển từ thương mại tự do sang ưu tiên thương mại công bằng.

 Ông Nunzio De Filippis - Giám đốc Điều hành Cargotrans USA - giới thiệu thông tin tổng quan về thị trường Hoa Kỳ tại hội nghị. (Ảnh: Xuân Anh/TTXVN)

Ông Nunzio De Filippis - Giám đốc Điều hành Cargotrans USA - giới thiệu thông tin tổng quan về thị trường Hoa Kỳ tại hội nghị. (Ảnh: Xuân Anh/TTXVN)

Năm 2025, một loạt các biện pháp thuế quan tại Hoa Kỳ đã được triển khai nhanh chóng, khởi đầu bằng việc công bố mức thuế 10% theo Đạo luật Quyền hạn Kinh tế Khẩn cấp Quốc tế (IEEPA) vào ngày 1/2, áp dụng cho Trung Quốc, Canada và Mexico.

Ngoài IEEPA, chính quyền Hoa Kỳ còn có các cơ sở khác trong Đạo luật Thương mại năm 1974 để thực thi áp thuế lên hàng hóa nhập khẩu, nhằm giải quyết các vấn đề về cán cân thanh toán.

Theo ông Nunzio De Filippis, trong khi chính sách của Hoa Kỳ thay đổi nhanh chóng, các nhà nhập khẩu quốc tế cũng phản ứng một cách chủ động. Một trong những cách thức chính là đa dạng hóa nguồn cung và tìm kiếm nhà cung cấp thay thế.

Việc sử dụng các kho ngoại quan và khu thương mại tự do (FTZ) cũng ngày càng trở nên quan trọng để trì hoãn hoặc phòng ngừa rủi ro thuế đối với hàng tồn kho.

“Sự thay đổi trong chính sách thương mại của Hoa Kỳ đang mở ra một cơ hội to lớn cho các quốc gia như Việt Nam. Nhu cầu của Hoa Kỳ về các nhà cung cấp ổn định ở Đông Nam Á đang tăng mạnh.

Các doanh nghiệp Việt Nam sẽ có một vị trí thuận lợi để thay thế các nhà cung cấp từ Trung Quốc trong nhiều lĩnh vực khác nhau,” ông Nunzio De Filippis nêu góc nhìn.

Ông Nguyễn Trần Khánh Hoàng, Giám đốc Điều hành Super Cargo Service Group, cho rằng để tận dụng được các cơ hội, doanh nghiệp Việt Nam trước hết phải vượt qua ba thách thức chính, bao gồm: Chi phí logistics cao, rủi ro trong công tác chuẩn bị chứng từ và khả năng đối mặt với các cuộc điều tra gian lận thương mại, cùng với yêu cầu phải đáp ứng các tiêu chuẩn logistics khắt khe của Hoa Kỳ.

Thách thức đầu tiên, chi phí logistics cao, được xác định là một trong những rào cản lớn nhất. Chi phí này không chỉ đơn thuần là cước vận tải mà là tổng hòa của nhiều yếu tố, bao gồm chi phí vận chuyển, chi phí lưu kho, các thủ tục thông quan ở cả hai đầu Việt Nam và Hoa Kỳ và đặc biệt là các chi phí ẩn có thể phát sinh trong quá trình xuất khẩu.

Vấn đề tiếp theo mà các doanh nghiệp cần hết sức lưu tâm là rủi ro liên quan đến chứng từ và các cuộc điều tra gian lận thương mại. Các rủi ro này có thể xuất phát từ những sai sót phổ biến trong quá trình làm hồ sơ, việc chưa cập nhật các quy định mới từ các cơ quan của Hoa Kỳ như Ủy ban Hàng hải Liên bang (FMC).

Việc đáp ứng tiêu chuẩn logistics của Hoa Kỳ cũng là một thử thách không nhỏ. Vấn đề trọng tâm nằm ở thặng dư thương mại của Việt Nam với Hoa Kỳ, con số đã lên tới 123,5 tỷ USD và được đánh giá là “không bền vững.” Từ đó, phía Hoa Kỳ kỳ vọng Việt Nam tăng cường minh bạch, giảm các rào cản phi thuế quan và thực thi mạnh mẽ hơn các biện pháp chống lại hàng hóa không rõ nguồn gốc xuất xứ.

 Đại diện doanh nghiệp đặt câu hỏi cho các chuyên gia tại hội nghị. (Ảnh: Xuân Anh/TTXVN)

Đại diện doanh nghiệp đặt câu hỏi cho các chuyên gia tại hội nghị. (Ảnh: Xuân Anh/TTXVN)

Các chuyên gia chia sẻ thêm Cơ quan Hải quan và Bảo vệ Biên giới (CBP) là cơ quan có thẩm quyền tại Hoa Kỳ được giao nhiệm vụ điều tra việc trung chuyển, truy xuất nguồn gốc và xác định đặc tính thiết yếu của sản phẩm.

Do hàng hóa có nguồn gốc từ Trung Quốc đang chịu thuế cao, CBP vẫn đang siết chặt việc kiểm soát hành vi trung chuyển hàng hóa này qua các nước thứ ba để lẩn tránh thuế.

Điều này đòi hỏi các nhà xuất khẩu tại Việt Nam sử dụng nguyên liệu đầu vào từ Trung Quốc phải đảm bảo tuân thủ tuyệt đối về quy tắc xuất xứ dựa trên sự “chuyển đổi đáng kể” của sản phẩm, không chỉ dựa trên công đoạn lắp ráp cuối cùng.

Do đó, việc cung cấp đầy đủ thông tin định mức nguyên vật liệu, tờ khai của nhà cung cấp và hồ sơ kiểm toán để chứng minh nguồn gốc là bắt buộc. Việc khai báo sai nguồn gốc có thể dẫn đến các khoản phạt nặng hoặc mất bạn hàng là nhà nhập khẩu Hoa Kỳ.

Về mặt tối ưu hóa tài chính, các chuyên gia gợi ý chiến lược giảm thuế hiệu quả thông qua việc vận dụng chương trình “First Sale for Export” (FSFE).

Đây là một quy trình hợp pháp cho phép nhà nhập khẩu tại Hoa Kỳ sử dụng giá trị trên hóa đơn giao dịch đầu tiên (giữa nhà sản xuất và bên trung gian) để khai báo hải quan, thay vì giá trị ở giao dịch thứ hai (giữa bên trung gian và nhà nhập khẩu).

Một nghiên cứu tình huống cụ thể trên mặt hàng may mặc từ Việt Nam đã chỉ ra, việc áp dụng First Sale có thể giúp giảm giá trị tính thuế của một lô hàng từ 100.000 USD xuống còn 85.000 USD, với mức thuế tổng cộng phải trả từ 26.500 USD giảm xuống còn 22.525 USD, tương đương khoản tiết kiệm thuế gần 4.000 USD. Với doanh nghiệp xuất khẩu 100 lô hàng mỗi năm, tổng mức tiết kiệm có thể lên đến gần 400.000 USD.

Bên cạnh đó, các dịch vụ khác như kiểm toán Incoterm giúp phân tách các chi phí tại nước xuất khẩu ra khỏi giá trị tính thuế, và dịch vụ hoàn thuế (Duty Drawback) cũng góp phần gia tăng lợi ích tài chính cho doanh nghiệp. Qua đó, củng cố nguồn lực giúp doanh nghiệp vượt qua thách thức và nắm bắt cơ hội phát triển trong bối cảnh chuỗi cung ứng toàn cầu có nhiều biến động khó lường./.

(TTXVN/Vietnam+)

Nguồn VietnamPlus: https://www.vietnamplus.vn/tim-giai-phap-cai-thien-chi-phi-cho-doanh-nghiep-khi-xuat-khau-vao-hoa-ky-post1044955.vnp
Zalo