Tiền triều Nguyễn (1802 - 1945) Kỳ I

Năm Nhâm Tuất (1802), Nguyễn Phúc Ánh thiết lập triều Nguyễn, đến năm 1804, lấy quốc hiệu là Việt Nam. Năm Mậu Tuất (1839), vua Minh Mệnh cho đổi quốc hiệu là Đại Nam. Triều Nguyễn tồn tại từ năm 1802 đến năm 1945, kéo dài 144 năm. Trong suốt thời gian họ Nguyễn nắm chính quyền, có thể chia làm hai giai đoạn...

Tiền triều Nguyễn (1802 - 1945)

Năm Nhâm Tuất (1802), Nguyễn Phúc Ánh thiết lập triều Nguyễn, đến năm 1804, lấy quốc hiệu là Việt Nam. Năm Mậu Tuất (1839), vua Minh Mệnh cho đổi quốc hiệu là Đại Nam. Triều Nguyễn tồn tại từ năm 1802 đến năm 1945, kéo dài 144 năm. Trong suốt thời gian họ Nguyễn nắm chính quyền, có thể chia làm hai giai đoạn:

- Giai đoạn thứ nhất, từ 1802 - 1884, trải qua các đời vua Gia Long (1802 - 1819), Minh Mệnh (1820 - 1841), Thiệu Trị (1841 - 1847), Tự Đức (1848 - 1883). Đây là giai đoạn độc lập tự chủ của Việt Nam. Các vua triều Nguyễn kế tiếp nhau xây dựng và củng cố quyền thống trị, bảo vệ chế độ phong kiến Trung ương tập quyền.

- Giai đoạn thứ hai, từ 1884 - 1945, Thực dân Pháp đánh chiếm kinh thành Huế, ép triều đình nhà Nguyễn ký các Hiệp ước công nhận sự bảo hộ hoàn toàn của Pháp đối với Đại Nam. Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công, triều Nguyễn kết thúc, lịch sử Việt Nam bước sang trang mới, nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời.

Triều Nguyễn giai đoạn (1802 - 1884)

Bối cảnh lịch sử

Giai đoạn này kéo dài trong 82 năm, bắt đầu từ khi vua Gia Long lên ngôi vào năm 1802, trải qua 4 đời vua. Đây là giai đoạn độc lập tự chủ của triều Nguyễn, toàn quyền xây dựng mô hình Nhà nước quân chủ, thể hiện qua các lĩnh vực:

- Về kinh tế - xã hội: Với chủ trương “Dĩ nông vi bản” (lấy nghề nông làm gốc), nhà Nguyễn hết sức coi trọng vấn đề ruộng đất và sản xuất nông nghiệp. Dưới triều Nguyễn, nông nghiệp khá phát triển. Tuy nhiên, kinh tế nông nghiệp dưới triều Nguyễn vẫn chưa vượt khỏi phương thức canh tác cổ truyền, cộng thêm mất mùa, thiên tai, dịch bệnh xảy ra khắp nơi, ảnh hưởng to lớn đến cuộc sống của nhân dân.

- Về sản xuất thủ công nghiệp: Đi đôi với sự phát triển của các nghề thủ công truyền thống trong dân gian là hoạt động của thủ công nghiệp nhà nước trong các quan xưởng, trong đó có các xưởng đúc tiền. Tuy nhiên, phương thức sản xuất vẫn không nhiều thay đổi, nghề thủ công vẫn gắn liền với sản xuất nông nghiệp, không hình thành các phường hội với quy chế riêng như ở phương Tây, do đó sản xuất thủ công nghiệp không có điều kiện phát triển mạnh.

- Về thương nghiệp: Dưới đời vua Gia Long, Minh Mệnh, thương nghiệp tương đối phát triển. Từ thời Minh Mệnh trở đi, việc giao lưu buôn bán với các nước trong khu vực được mở rộng. Nhu cầu về tiền tệ ngày càng nhiều. Nhà nước quản lý việc đúc vàng bạc, khai thác mỏ, đồng thời cho tư nhân tham gia vào việc khai thác. “Hiện tượng đáng chú ý là nhà nước tham gia vào việc buôn bán với bên ngoài. Từ năm 1824, Minh Mệnh đã cho thuyền đi công cán ở các đô thị như Hạ Môn (Singapore), Giang Lưu Ba (Inđônêxia), Lữ Tống (Luy - xông – Philippin), Băng Cốc (Thái Lan), Quảng Châu,… bán thóc gạo, tơ lụa, lâm sản quý,… và mua len, dạ, vũ khí trở về”.

- Về chính sách tiền tệ: Nắm rõ được vai trò của tiền tệ trong phát triển kinh tế và củng cố vương triều, năm 1803, vua Gia Long đã cho lập xưởng đúc tiền ở Bắc Thành và tiến hành đúc tiền. Trong giai đoạn này, các vị vua và triều đình có rất nhiều chính sách quản lý tiền tệ. Dù vậy, tiền tệ triều Tây Sơn vẫn lưu hành.

Từ năm 1803, vua Gia Long bắt đầu cho đúc tiền để lưu thông trong dân gian, nhưng phải đến năm 1816 mới thật sự có chiếu ban bố cấm lưu thông và thu hồi tiền Tây Sơn: “Bính Tý, Gia Long năm thứ 15 [1816], Tháng 9... Hủy tiền ngụy hiệu của Tây Sơn, chiếu rằng: Quy chế đúc tiền, từ xưa ghi niên hiệu cốt để phân biệt. Từ thuở Tây Sơn lấn cướp, đúc ra các thứ tiền Thái Đức, Quang Trung, Cảnh Thịnh, Bảo Hưng, dân gian nối nhau thông dụng, lẫn lộn rất nhiều. Nhưng noi theo đã lâu, chợt nghiêm cấm thì người tích trữ phải đọng lại mà không thông, người dùng quen thì ngại tiền mới, thực ra không tiện cho dân. Vậy chuẩn định những tiền ngụy từ năm Đinh Sửu đến năm Tân Tỵ là năm năm thì hãy cho thông dụng, từ năm Nhâm Ngọ về sau thì đều cấm. Ở trong hạn ấy thì kho tàng trưng thu và nhân dân mua bán không được kén loại, làm trái thì có tội”. Tuy nhiên, để tạo điều kiện cho giao thương, đồng tiền Tây Sơn (mặc dù không chính thống) vẫn còn được sử dụng cho đến giữa thời Minh Mệnh.

Để quản lý tiền tệ, nhà vua cho đặt Cục Bảo Tuyền để quản lý việc đúc tiền và quy định chất lượng, tỷ lệ thành phần của tiền. “(Gia Long) Năm thứ 12, định lập trường đúc tiền ở hồ Thủy Quan cũ trong cửa ô Tây Long Bắc thành, chung quanh dựng hàng rào kín, ngoài đào hào sâu, chỉ mở 2 cửa, cắt lính xét hỏi. Lại làm kho tạm ở gần đấy, tạm chứa bạc tiền để sẵn cho việc thu phát. Về đúc tiền phải theo đúng cách thức mẫu vẽ ở kinh đưa ra mà làm”

Theo quy định, cách pha chế tỉ lệ hợp kim như sau: đồng đỏ 50%, kẽm 41,5%, chì 6,5%, thiếc 2%. Từ đó về sau, tiền đồng triều Nguyễn là tiền hợp kim đồng, kẽm, do đó tiết kiệm được nguyên liệu đồng, tăng số lượng tiền được đúc.

Vua Minh Mệnh (1820-1841) cũng có nhiều cải cách chấn hưng đất nước với những chính sách thống nhất tiền tệ và một số chính sách, được chính sử ghi chép lại như sau:

“Canh Thìn, Minh Mệnh năm thứ 1 (1820), tháng 4… Dựng cục đúc tiền ở Vũ Khố. Vua nhiều lần đến xem”.

Việc đúc tiền đồng Minh Mệnh thông bảo do Bộ Hộ phụ trách, sau đó nộp cho Cục Bảo Tuyền, thành phần kim loại cũng được quy định chặt chẽ gồm : đồng đỏ 49%, kẽm 45%, chì 6%; 100 cân hợp kim đó đúc thành 37 xâu 8 bách. Theo quy định này thì so với tiền Gia Long, hàm lượng đồng ít hơn, hàm lượng kẽm nhiều hơn, không có thành phần của thiếc.

“Nhâm Ngọ, năm Minh Mệnh thứ 3 [1822], tháng 4... Bắt đầu đúc tiền đồng lớn (nặng 1 đồng cân trở xuống, 9 phân 1 ly trở lên). Định phép chế lẫn đồng kẽm thiếc (phàm đúc tiền đồng lớn, cứ mỗi 100 cân dùng khối đồng đỏ 52 cân 4 lạng, kẽm 47 cân 8 lạng, thiếc 4 lạng. Đúc hạng tiền đồng 6 phân thì cứ mỗi 100 cân dùng tiền đồng ngụy hiệu 52 cân, khối đồng đỏ 27 cân, kẽm 20 cân 14 lạng, thiếc 2 lạng).

Vua Thiệu Trị gần như giữ nguyên mọi chính sách như dưới đời vua Minh Mệnh, tuy nhiên cũng thấy được một số điểm trong việc điều hành tiền tệ :

“Tân Sửu, Thiệu Trị năm thứ 1(1841), tháng 11, định giá những kim tiền và ngân tiền đời Minh Mệnh và Thiệu Trị. Phàm bên ngoài các nơi mua, đổi đều chiểu theo một giá đã định. Nếu có ai tình nguyện nộp tiền ấy vào kho nhà nước thì sẽ cấp trả bằng tiền, nếu đem nộp vào thuế khóa thì sẽ tính theo bằng số chính ngạch.

Giáp Thìn, Thiệu Trị năm thứ 4 (1844), tháng 7, ban kiểu những thỏi bạc mới chế tạo cho các địa phương ở trong Kinh và ngoài các tỉnh. Kiểu cũ, hơi dày, kẻ làm gian dễ trà trộn. Đến đây, đổi định kiểu mới: hơi mỏng so với kiểu cũ”.

Vua Tự Đức là một vị vua trị vì lâu nhất trong Vương triều nhà Nguyễn và cũng đánh dấu sự mất dần lãnh thổ cũng như quyền lực do sự lấn chiếm của Thực dân Pháp. Tuy nhiên chúng ta cũng thấy được một số chính sách điều hành tiền tệ của triều đình như tích trữ tiền hay mở thêm các lò đúc tiền ở Hà Nội và các địa phương.

“Mậu Thân, Tự Đức năm thứ 1 (1848), tháng 4, sai trích ra 50.000 quan tiền kẽm ở kho, giao cho Thị vệ phụng giữ, để chuẩn bị việc chi dùng.

Canh Tuất, năm Tự Đức thứ 3 (1850), tháng 3, đặt thêm lò đúc tiền (hai lò ở huyện Thọ Xương tỉnh Hà Nội, một lò ở thành tỉnh Bắc Ninh, đúc theo kiểu mẫu rộng dày của đồng tiền kẽm “Tự Đức thông bảo” do Nhà nước đã đúc.…”.

Như vậy, nhìn chung, trong giai đoạn độc lập của triều Nguyễn, triều đình đã chú trọng đặc biệt đến các chính sách đúc tiền và lưu thông tiền tệ trong lãnh thổ Việt Nam.

Đón đọc Kỳ II: Tiền đời vua Nguyễn Thế Tổ (1802 - 1819)

Nguồn: Tác phẩm: ''Lịch sử đồng tiền Việt Nam'' của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam
Biên tập: Mạnh - Thắng | Đồ họa: Văn Lâm

Lâm.TV

Nguồn TBNH: https://thoibaonganhang.vn/tien-trieu-nguyen-1802-1945-ky-i-169592.html
Zalo