Tiền gửi vẫn chảy vào ngân hàng; kiến nghị vốn điều lệ 500 tỷ đồng được sản xuất vàng miếng

Tiền gửi vào ngân hàng vẫn tiếp tục tăng và đạt kỷ lục mới; kiến nghị nới điều kiện với sản xuất vàng miếng; sửa Nghị định về tín dụng nông nghiệp; các ngân hàng trung ương tiếp tục tăng mua vàng... là tiêu điểm ngân hàng tuần qua.

Thiếu kênh đầu tư vượt trội, dòng tiền vẫn chảy vào ngân hàng

Tiền gửi vào ngân hàng vẫn tiếp tục tăng và đạt kỷ lục mới, trong khi nhu cầu “lướt sóng” vàng, bất động sản đang chững lại.

Số liệu mới nhất vừa được Ngân hàng Nhà nước công bố cho thấy, đến cuối tháng 3/2025, tiền gửi cả khách hàng cá nhân và tổ chức kinh tế của các tổ chức tín dụng đạt gần 15 triệu tỷ đồng, tăng 1,8% so với tháng liền trước. Trong đó, tiền gửi của dân cư đạt 7,47 triệu tỷ đồng, tăng 5,73% so với đầu năm. Tiền gửi của doanh nghiệp đạt 7,52 triệu tỷ đồng, giảm 1,92% so với cuối năm 2024, nhưng tăng hơn 158.000 tỷ đồng so với tháng trước.

Theo TS. Châu Đình Linh (Trường đại học Ngân hàng TP.HCM), tiền gửi chảy mạnh vào ngân hàng do người dân có tâm lý thận trọng trong bối cảnh nền kinh tế và các kênh đầu tư khác tiềm ẩn nhiều yếu tố rủi ro, khó lường. Dù tỷ suất sinh lời thấp hơn các kênh đầu tư khác, song gửi tiết kiệm có tính an toàn và thanh khoản cao.

Tương tự, ông Nguyễn Quang Huy, Giám đốc điều hành Khoa tài chính - Ngân hàng (Trường đại học Nguyễn Trãi) cho rằng, dù lãi suất không hấp dẫn so với nhiều kênh đầu tư khác, song phù hợp với khẩu vị rủi ro của đa số người dân (an toàn là yêu cầu số một). “Thị trường có nhiều kênh đầu tư, nhưng rất thiếu kênh đầu tư hấp dẫn cả về lợi suất, độ an toàn và tính thanh khoản. Vì vậy, tiền nhàn rỗi trong dân vẫn chảy chủ yếu vào hệ thống ngân hàng”, ông Huy nhận định.

Số liệu của Ngân hàng Nhà nước cho thấy, tính đến cuối tháng 5/2025, tín dụng toàn nền kinh tế tăng 6,52%, cao gấp gần 3 lần so với tốc độ tăng trưởng cùng kỳ năm ngoái. Như vậy, tín dụng toàn nền kinh tế đã đạt quy mô khoảng 16,6 triệu tỷ đồng, tăng thêm 1 triệu tỷ đồng so với cuối năm 2024.

Sau khi tăng nóng, thị trường bất động sản vài tháng gần đây có dấu hiệu chững lại. Theo TS. Trần Xuân Lượng, Phó viện trưởng Viện Nghiên cứu đánh giá thị trường bất động sản Việt Nam, nhà đầu tư thận trọng hơn do biến động chính trị trên thế giới, cũng như những thay đổi về thể chế trong nước. Thị trường bất động sản 6 tháng cuối năm 2025 dự đoán đi ngang, giữ trạng thái ổn định.

Nhiều chuyên gia kinh tế cũng cho rằng, sau giai đoạn tăng trưởng nóng về giá, thị trường bất động sản sẽ chững lại, cầu “lướt sóng” bất động sản giảm bớt. Thanh khoản chậm lại khiến dòng tiền đổ vào lĩnh vực này không còn chảy mạnh như nửa đầu năm.

Đối với thị trường vàng, giá vàng miếng SJC tăng 44% trong 4 tháng đầu năm, nhưng liên tiếp đi ngang trong 2 tháng gần đây. Trên thế giới, giá vàng tăng vọt từ mốc 2.624 USD/ounce đầu năm nay lên mức gần 3.500 USD/ounce cuối tháng 4/2025 và đang lình xình quanh mốc 3.400 USD/ounce.

Dù dự báo giá vàng thế giới tiếp tục đi lên, song giới chuyên gia cho rằng, giá vàng đang trong giai đoạn “có thể quay đầu bất kỳ lúc nào”. Vì vậy, nhà đầu tư cần thận trọng, chỉ nên rót vốn vào vàng nếu thực sự coi đây là tài sản phòng thủ hoặc đầu tư dài hạn.

“Rất khó dự báo giá vàng thời gian tới, song tôi cho rằng, trong bối cảnh thế giới bất ổn, các nhà đầu tư tổ chức và cá nhân tìm đến vàng để đề phòng bất trắc ngày càng tăng. Tại Việt Nam, cầu đầu tư vàng vẫn rất mạnh, nhưng nhà đầu tư phải cảnh giác, luôn sẵn sàng cho mọi bất ngờ”, ông Shaokai Fan, Giám đốc khu vực châu Á - Thái Bình Dương (không bao gồm Trung Quốc), kiêm Giám đốc Ngân hàng trung ương toàn cầu tại Hội đồng Vàng thế giới khuyến nghị.

Với kênh đầu tư chứng khoán, ông Phan Dũng Khánh, Giám đốc Tư vấn Đầu tư Maybank Investment Bank cho rằng, thị trường vẫn đón tin tích cực nhiều hơn tin tiêu cực. Dòng tiền và thanh khoản cải thiện dần đang hỗ trợ tâm lý nhà đầu tư. Tuy nhiên, để thị trường tăng trưởng mạnh mẽ, vẫn cần các thông tin mang tính nền tảng như tăng trưởng kinh tế hay thị trường nâng hạng…

Cũng theo các chuyên gia, việc Quốc hội luật hóa tài sản số, tài sản mã hóa trong Luật Công nghiệp Công nghệ số và việc hình thành Trung tâm tài chính quốc tế tại Việt Nam sẽ mở ra kênh đầu tư chính thức mới. Tuy nhiên, kênh đầu tư này đòi hỏi kiến thức chuyên môn và có độ rủi ro cao, không phù hợp với số đông nhà đầu tư.

Khi các kênh đầu tư đều bấp bênh, số đông nhà đầu tư vẫn ưu tiên yếu tố bảo toàn vốn - là ưu thế lớn nhất của tiền gửi tiết kiệm. “Điều này lý giải vì sao tiền nhàn rỗi vẫn chảy vào ngân hàng dù lãi suất tiết kiệm khá thấp”, TS. Nguyễn Trí Hiếu, chuyên gia kinh tế nói.

Đề nghị cho phép doanh nghiệp vốn điều lệ từ 500 tỷ đồng được sản xuất vàng miếng

Hiệp hội vàng cho rằng, với quy định chặt chẽ như dự thảo, số lượng doanh nghiệp tham gia sản xuất vàng miếng không đáng kể, hạn chế nguồn cung vàng miếng, khó xóa bỏ độc quyền vàng miếng.

Hiệp hội Kinh doanh vàng Việt Nam mới đây đã có công văn góp ý Dự thảo sửa đổi, bổ sung Nghị định 24 quản lý thị trường vàng (Nghị định 24).

Trong đó, đáng chú ý, Hiệp hội đã đề nghị không nên bổ sung tổ chức tín dụng, đặc biệt là các ngân hàng thương mại tham gia sản xuất, kinh doanh vàng miếng.

Lý giải điều này, VGTA cho biết, theo Luật Các tổ chức tín dụng ngày 18/1/2024, ngân hàng thương mại không có chức năng nhiệm vụ sản xuất vàng. Nhiệm vụ chính của các ngân hàng thương mại là kinh doanh tiền tệ (đặc biệt là hoạt động tín dụng) và cung ứng dịch vụ thanh toán.

"Nếu để các ngân hàng thương mại tham gia sản xuất, kinh doanh vàng miếng, các ngân hàng thương mại buộc phải sử sụng nguồn vốn khá lớn để đầu tư nhà xưởng, máy móc, đào tạo tay nghề nhân công, đầu tư vào lĩnh vực không thuộc chức năng, nhiệm vụ chính là cấp tín dụng, hỗ trợ vốn cho các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh để đạt mục tiêu tăng trưởng kinh tế", Hiệp hội cho biết.

Bên cạnh đó, các ngân hàng thương mại không phải là tổ chức chuyên sâu về sản xuất kinh doanh vàng và lịch sử đã chứng minh các ngân hàng thương mại sản xuất và kinh doanh vàng miếng không hiệu quả giai đoạn trước 2012.

“Một số ngân hàng thương mại đã để lại hậu quả ngoài mong muốn kéo dài mà nhờ sự chỉ đạo quyết tâm hiệu quả của Ngân hàng Nhà nước mới ổn định lại” - VGTA nhấn mạnh.

Ngoài ra, Hiệp hội Kinh doanh vàng Việt Nam cũng góp ý liên quan đến quy định về điều kiện được cấp giấy phép sản xuất vàng miếng đối với doanh nghiệp có vốn điều lệ 1.000 tỷ đồng trở lên.

Hiệp hội cho rằng quy định này quá chặt, chỉ 1 đến 3 doanh nghiệp sản xuất kinh doanh vàng có thể đáp ứng được điều kiện này.

Với quy định trên, số lượng doanh nghiệp tham gia sản xuất vàng miếng không đáng kể, khiến thị trường khó mở rộng và nguy cơ Nhà nước tiếp tục nắm thế độc quyền, làm giảm tính đa dạng và hạn chế nguồn cung vàng miếng.

Với lý do trên, Hiệp hội kiến nghị vốn điều lệ từ 500 tỷ đồng trở lên là phù hợp. Ngoài ra, nên tập trung về năng lực sản xuất của doanh nghiệp, về hiệu quả kinh doanh, uy tín doanh nghiệp, thương hiệu trên thị trường, mẫu mã, chất lượng sản phẩm vàng miếng; tình hình chấp hành quy định của nhà nước liên quan đến kinh doanh vàng.

Đối với việc cấp hạn mức hàng năm và giấy phép từng lần xuất khẩu, nhập khẩu vàng miếng, nhập khẩu vàng nguyên liệu đối với doanh nghiệp sản xuất vàng miếng tại dự thảo, Hiệp hội cho rằng cần được xem xét bỏ.

Bởi quy định này tăng giấy phép con, tăng thủ tục hành chính đối với doanh nghiệp, kìm hãm hoạt động xuất khẩu vàng miếng, tái tạo ngoại tệ cho đất nước. Đồng thời làm mất cơ hội sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp vì diễn biến thị trường vàng thế giới biến động liên tục, chịu tác động nhiều yếu tố.

Nếu chờ thủ tục cấp phép từng lần doanh nghiệp sẽ mất cơ hội xuất khẩu hoặc nhập khẩu với giá tốt nhất, ảnh hưởng đến hiệu quả sản xuất và hoạt động xuất khẩu.

Hiệp hội cũng đề nghị chỉ quy định Ngân hàng Nhà nước cấp hạn mức xuất nhập khẩu vàng miếng, nhập khẩu vàng nguyên liệu hàng năm, phân bổ cho từng doanh nghiệp ngay từ quý I đầu năm theo nguyên tắc công khai, minh bạch, không phát sinh giấy phép con.

Trên cơ sở đó, các doanh nghiệp chủ động lựa chọn thời điểm và khối lượng (trong hạn mức) để nhập khẩu hoặc xuất khẩu nhằm đạt hiệu quả cao nhất. Doanh nghiệp thực hiện báo cáo định kỳ về tình hình thực hiện hạn mức xuất nhập khẩu vàng với Ngân hàng Nhà nước. Việc điều chỉnh bổ sung hạn mức do Ngân hàng Nhà nước xem xét, quyết định.

Ngoài ra, đề nghị Ban soạn thảo cân nhắc về cơ chế nên khuyến khích nhập vàng nguyên liệu để sản xuất vàng miếng, vàng trang sức đáp ứng nhu cầu thị trường trong nước và phục vụ xuất khẩu, tái tạo ngoại tệ, không nên tạo cơ chế về hoạt động mang tính thương mại (nhập khẩu và xuất khẩu vàng miếng).

Hộ kinh doanh nông nghiệp được vay tối đa 500 triệu đồng không tài sản thế chấp

Chính phủ vừa ban hành Nghị định số 156/2025/NĐ-CP sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 55/2015/NĐ-CP ngày 09/6/2015 của Chính phủ về chính sách tín dụng phục vụ phát triển nông nghiệp, nông thôn đã được sửa đổi, bổ sung một số điều theo Nghị định số 116/2018/NĐ-CP ngày 07/9/2018 của Chính phủ.

Theo đó, Nghị định nâng mức cho vay tối đa không có tài sản bảo đảm đối với cá nhân, hộ gia đình, tổ hợp tác, hộ kinh doanh, hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã và chủ trang trại để phù hợp với nhu cầu vốn phục vụ sản xuất nông nghiệp của các khách hàng hiện nay.

Cụ thể, mức cho vay không có tài sản bảo đảm đối với cá nhân, hộ gia đình được tăng từ mức 100-200 triệu đồng lên mức 300 triệu đồng.

Mức cho vay không có tài sản bảo đảm đối với tổ hợp tác và hộ kinh doanh được tăng từ mức 300 triệu đồng lên mức 500 triệu đồng.

Mức cho vay không có tài sản bảo đảm đối với chủ trang trại được tăng từ mức 01 - 02 tỷ đồng lên mức 03 tỷ đồng.

Mức cho vay không có tài sản bảo đảm đối với hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã được tăng từ mức 01 - 03 tỷ đồng lên mức 05 tỷ đồng.

Nghị định cũng cắt giảm thủ tục hành chính, tạo thuận lợi cho khách hàng khi vay vốn tại các tổ chức tín dụng. Theo đó, bỏ nội dung liên quan đến yêu cầu nộp giấy xác nhận chưa được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và đất không có tranh chấp do Ủy ban nhân dân cấp xã xác nhận; đồng thời quy định khách hàng được vay không có tài sản bảo đảm và tổ chức tín dụng thỏa thuận (thay vì yêu cầu bắt buộc như quy định trước đây) về việc khách hàng nộp cho tổ chức tín dụng giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu tài sản gắn liền với đất của khách hàng trong thời gian vay không có tài sản bảo đảm tại tổ chức tín dụng.

Nghị định cũng sửa đổi quy định về cơ cấu lại thời hạn trả nợ, giữ nguyên nhóm nợ và trích lập dự phòng để xử lý rủi ro theo hướng giao ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định việc cơ cấu lại thời hạn trả nợ đối với các khoản nợ được giữ nguyên nhóm nợ theo Nghị định 55/2015/NĐ-CP; đồng thời hướng dẫn về phân loại nợ, trích lập dự phòng rủi ro đối với các khoản nợ được giữ nguyên nhóm nợ để phù hợp với Luật Các tổ chức tín dụng năm 2024 và các quy định pháp luật có liên quan.

Các nội dung được bổ sung mới trong Nghị định là: Bổ sung một số khái niệm liên quan đến chính sách khoanh nợ để tạo điều kiện thuận lợi cho công tác khoanh nợ và phù hợp với thực tế khoanh nợ trong thời gian qua; Bổ sung chính sách tín dụng khuyến khích nông nghiệp hữu cơ, tuần hoàn được hưởng chính sách tín dụng tương tự như khách hàng sản xuất nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao, liên kết trong sản xuất nông nghiệp (về mức cho vay không có tài sản bảo đảm, cơ chế xử lý rủi ro) để phù hợp với xu thế phát triển nông nghiệp theo các mô hình mới hiện nay theo chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ...

Việc sửa đổi, bổ sung Nghị định nhằm phù hợp với thực tế nhu cầu vốn cho sản xuất nông nghiệp hiện nay và tiếp tục phát huy hiệu quả, đi vào cuộc sống trong thời gian tới theo đúng chủ trương, chỉ đạo của Đảng, Nhà nước, góp phần khơi thông nguồn lực hơn nữa cho lĩnh vực nông nghiệp nông thôn, đóng góp chung vào phấn đấu hoàn thành mục tiêu tăng tốc, bứt phá, về đích trong phát triển kinh tế - xã hội của cả nước trong thời gian tới cũng như phù hợp với mô hình chính quyền địa phương 2 cấp.

Nghị định sẽ có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01 tháng 7 năm 2025.

Chia lửa chất vấn, Thống đốc cảnh báo huy động vốn phải tính toán khả năng trả nợ

"Chia lửa" với Bộ trưởng Bộ tài chính Nguyễn Văn Thắng trong phiên chất vấn sáng 19/6, Thống đốc ngân hàng Nhà nước (NHNN) Nguyễn Thị Hồng cho rằng, cần đa dạng nguồn vốn cho nền kinh tế, thay vì chỉ dựa vào vốn ngân hàng. Tuy vậy, Thống đốc cũng cảnh báo khi huy động vốn cho các Dự án lớn cần tính toán khả năng vay và trả nợ.

Theo Thống đốc, tăng trưởng của nền kinh tế Việt Nam hiện nay đang dựa rất lớn vào vốn nhưng hiệu quả chưa cao, thể hiện ở chỉ số ICOR còn cao so với khu vực, cho thấy hiệu quả sử dụng vốn cần phải nâng cao hơn nữa.

Dù thời gian qua, Việt Nam thu hút lượng vốn đầu tư nước ngoài rất lớn, đặc biệt là vốn FDI, song lại chưa tận dụng được nhiều lợi thế về vốn, đặc biệt là về chuyển giao công nghệ, khả năng quản trị, chưa kết nối được với khu vực trong nước. Thống đốc cho rằng, thời gian tới cần có sự "làm mới" trong chiến lược thu hút vốn FDI theo hướng đẩy mạnh chuyển giao công nghệ, quản trị và gắn với nền kinh tế trong nước nhiều hơn.

Tán thành ý kiến của Bộ trưởng Bộ Tài chính về việc muốn tăng trưởng kinh tế cao cần dựa vào cả vốn trong nước và nước ngoài, Thống đốc cho rằng, vốn nước ngoài rất đa dạng như: vốn FDI, vốn FII, vay nợ nước ngoài... Với chỉ tiêu nợ công, nợ nước ngoài hiện nay, dư địa vay nợ nước ngoài của Việt Nam còn rất rộng mở.

Tuy vậy, từ kinh nghiệm điều hành vĩ mô, Thống đốc lưu ý về việc vay vốn, sử dụng vốn.

Cụ thể, theo Thống đốc, vốn trong nước hiện nay đang phụ thuộc rất lớn hệ thống ngân hàng, kể cả vốn ngắn hạn lẫn vốn trung, dài hạn. Dư nợ tín dụng/GDP cuối năm 2024 đã lên tới mức 134%, nếu tiếp tục tăng sẽ tiềm ẩn rủi ro cho hệ thống ngân hàng và gây hệ lụy cho nền kinh tế, khó đạt mục tiêu vừa tăng trưởng kinh tế cao, vừa bền vững.

"Đây là vấn đề mà các bộ ngành thời gian tới cần hết sức lưu ý khi cân đối vốn cho các mục tiêu tăng trưởng kinh tế cao", Thống đốc đề nghị.

Lãnh đạo NHNN cũng cho rằng, cầu vốn đầu tư trong nước thời gian tới là rất lớn. Từ nay đến năm 2030, tầm nhìn 2045 và đặc biệt 2030, dự kiến sẽ triển khai nhiều công trình có nguồn vốn đầu tư lớn, ví dụ như xây dựng thêm 2.000 km đường cao tốc (hiện đang triển khai dự án cao tốc Bắc Nam với tổng vốn đầu tư lớn), đầu tư xây dựng nhiều sân bay, bến cảng, quy hoạch điện VIII...

Thống đốc khuyến nghị, ngay từ bây giờ, các bộ, ngành chức năng cần tính toán huy động vốn từ đâu, khả năng vay và trả nợ như thế nào, thời gian phân kỳ vốn, dự phòng nguồn vốn ra sao... để đảm bảo không tạo áp lực lớn để rủi ro vĩ mô.

NHNN cho biết, với vai trò huyết mạch của nền kinh tế, những năm qua, tín dụng của hệ thống ngân hàng tăng trung bình 14-15%/năm, mức cao so với khu vực. Năm 2025, để phục vụ mục tiêu tăng trưởng cao từ 8% trở lên, NHNN đã đưa ra chỉ tiêu tăng trưởng 16% và có thể điều chỉnh nếu lạm phát trong tầm kiểm soát.

"Trong bối cảnh kinh tế có độ mở lớn, thời gian qua điều hành chính sách tiền tệ có nhiều cố gắng. Thời gian tới, NHNN sẽ tiếp tục bám sát diễn biến để thực hiện các công cụ điều hành, thời gian và liều lượng hợp lý để kiểm soát lạm phát, ổn định vĩ mô, ổn định thị trường tiền tệ ngoại hối và an toàn hệ thống ngân hàng. Đây là điểm căn cốt bởi nếu kinh tế vĩ mô, tiền tệ, ngoại hối biến động như trước đây thì doanh nghiệp rất khó phát triển", Thống đốc cam kết.

Gần 43% ngân hàng trung ương có kế hoạch “ôm” thêm vàng dự trữ năm tới

Theo dữ liệu năm 2025 vừa được Hội đồng Vàng Thế giới (WGC) vừa công bố, có 95% các nhà quản lý dự trữ cho biết họ kỳ vọng các ngân hàng trung ương sẽ tiếp tục tăng lượng vàng dự trữ trong 12 tháng tới. Đây là mức cao kỷ lục so với kết quả các cuộc khảo sát từ năm 2019 đến nay. Các nhà quản lý dự trữ vẫn giữ quan điểm tích cực đối với vàng trong bối cảnh vàng đạt nhiều mức giá cao kỉ lục và các ngân hàng trung ương duy trì mua vàng trong 15 năm liên tiếp.

Thực tế, khảo sát Dự trữ vàng của Ngân hàng trung ương (CBGR) năm 2025 với dữ liệu thu thập từ 73 ngân hàng trung ương trên toàn cầu cho thấy, gần 43% các ngân hàng trung ương có kế hoạch tăng lượng vàng dự trữ trong năm tới.

Việc các ngân hàng trung ương trên toàn cầu tiếp tục có kế hoạch mua thêm vàng dự trữ cho thấy, vàng tiếp tục đóng vai trò là tài sản tích trữ an toàn giúp giảm thiểu rủi ro trong bối cảnh bất ổn kinh tế và địa chính trị kéo dài gây áp lực lên các nhà quản lý dự trữ.

Ba lý do chính khiến các ngân hàng trung ương và các nhà quản lý dự trữ đang ưu tiên giữ vàng làm tài sản ở thời điểm hiện tại là: khả năng bảo toàn giá trị trong dài hạn của vàng (80%), vai trò của vàng như một công cụ đa dạng hóa danh mục đầu tư hiệu quả (81%), và hiệu suất của vàng trong thời kì khủng hoảng (85%).

Các ngân hàng trung ương tại các thị trường mới nổi và các nền kinh tế đang phát triển (EMDE) một lần nữa giữ vững triển vọng tích cực đối với tỷ trọng của vàng trong danh mục dự trữ trong tương lai.

Có 28/58 (48%) các nước thuộc EMDE tham gia cuộc khảo sát cho rằng lượng vàng dự trữ của họ sẽ tăng lên trong 12 tháng tới, trong khi 3/14 (chiếm 21%) các nền kinh tế phát triển có dự định tương tự, cao hơn so với năm ngoái.

Lãi suất vẫn là yếu tố then chốt thúc đẩy nhu cầu nắm giữ vàng ở cả hai nhóm quốc gia trên. Tuy vậy, trong khi lạm phát (84%) và tình hình địa chính trị (81%) là mối quan tâm hàng đầu đối với các nước thuộc EMDE. Trong khi đó, 67% và 60% người tham gia khảo sát từ các nền kinh tế phát triển cũng có cùng mối lo ngại.

Đáng chú ý, ngày càng có nhiều ngân hàng trung ương tăng giữ vàng trong nước. Cụ thể, có 59% các ngân hàng trung ương lưu trữ vàng trong kho dự trữ quốc gia, tăng lên so với con số 41% ghi nhận trong năm 2024.

Bên cạnh đó, hầu hết các ngân hàng trung ương tham gia cuộc khảo sát (73%) cho rằng tỷ lệ nắm giữ đồng USD trong dự trữ toàn cầu sẽ sụt giảm ở mức trung bình hoặc cao trong 5 năm tới. Tuy nhiên, các tổ chức này cũng cho rằng tỷ trọng các loại tiền tệ khác (như Euro hay Nhân dân tệ) và vàng trong dự trữ toàn cầu sẽ tăng lên trong khoảng thời gian nêu trên.

Ông Shaokai Fan, Giám đốc khu vực Châu Á-Thái Bình Dương (không bao gồm Trung Quốc) kiêm Giám đốc Ngân hàng Trung ương Toàn cầu tại Hội đồng Vàng Thế giới khẳng định, con số gần một nửa số ngân hàng trung ương tham gia khảo sát có ý định tăng lượng vàng nắm giữ trong năm tới, đặt trong bối cảnh vàng đạt nhiều mức giá kỉ lục trong năm 2025 là điều đáng chú ý.

“Con số này phản ánh tình hình tài chính và địa chính trị toàn cầu hiện tại. Đồng thời, cho thấy vàng giữ vững vai trò là tài sản chiến lược trong bối cảnh thế giới đang đối mặt với bất ổn và biến động. Những lo ngại về lãi suất, lạm phát, và tình hình bất ổn thúc đẩy các ngân hàng trung ương chuyển sang vàng nhằm giảm thiểu rủi ro”, ông Shaokai Fan nhận định.

Tỷ giá được kỳ vọng giảm dần về cuối năm

Nhiều nhà đầu tư kỳ vọng hơn về việc Fed sẽ hạ lãi suất sau khi dữ liệu kinh tế của Mỹ được công bố cho thấy, Chỉ số Giá tiêu dùng (CPI) tháng 5/2025 thấp hơn so với dự báo. Theo đó, CPI của Mỹ tăng 0,1% trong tháng 5, thấp hơn so với mức dự báo 0,2% của các nhà kinh tế do Dow Jones khảo sát. Vì vậy, nhà đầu tư dự báo xác suất 80% Fed sẽ hạ lãi suất vào tháng 9/2025, đợt hạ lãi suất thứ hai sớm nhất là vào tháng 10.

Trên thị trường thế giới, giá đồng bạc xanh giảm mạnh trước những ảnh hưởng từ kỳ vọng Fed giảm lãi suất, căng thẳng địa chính trị, dữ liệu lạm phát tại Mỹ thấp hơn dự kiến, cũng như diễn biến trong đàm phán thương mại Mỹ - Trung. Chỉ số USD-Index giảm xuống 97,86 điểm trong phiên cuối tuần - giảm hơn 9% so với đầu năm. Sự suy yếu này chủ yếu đến từ lo ngại tăng trưởng kinh tế và chính sách thương mại từ Mỹ.

Ông Đinh Đức Quang, Giám đốc Khối Kinh doanh tiền tệ, ngân hàng UOB Việt Nam cho rằng, với triển vọng lãi suất USD theo xu hướng giảm, đi cùng các khó khăn trong ngắn hạn do tác động từ biến động thuế quan đối với triển vọng kinh tế và thu hút dòng vốn đầu tư vào các tài sản tại Mỹ, UOB dự báo, Chỉ số USD-Index có thể chịu áp lực xuống dưới mốc 100 trong các tháng còn lại năm 2025 và có thể quanh mức 97 vào đầu năm 2026.

PGS-TS. Nguyễn Hữu Huân, Giảng viên cấp cao Đại học Kinh tế TP.HCM cho biết, Chỉ số USD-Index giảm đã giúp giảm áp lực lên tỷ giá VND/USD. Tuy nhiên, tỷ giá vẫn đang duy trì ở mức cao, cho thấy áp lực này vẫn hiện hữu. Bên cạnh đó, tỷ giá có xu hướng mang tính mùa vụ, giai đoạn hiện tại có thể giảm, nhưng dự kiến bắt đầu tăng trở lại vào khoảng tháng 8/2025.

Tỷ giá VND/USD trung tâm do Ngân hàng Nhà nước (NHNN) niêm yết ngày 13/6 giảm 15 VND, xuống 24.975 VND/USD. Các ngân hàng thương mại giữ giá USD đứng yên, Vietcombank mua vào 25.820 - 25.850 VND/USD, bán ra 26.210 VND/USD.

Trong báo cáo công bố ngày 9/6/2025, UOB cho biết, từ đầu quý đến nay, VND đã mất giá 1,8%, chạm mức thấp kỷ lục mới 26.000 VND/USD. Sự suy yếu này chủ yếu xuất phát từ triển vọng kinh tế kém tích cực, rủi ro gia tăng về khả năng Mỹ tái áp mức thuế 46% nếu các cuộc đàm phán không đạt được tiến triển rõ rệt.

Những yếu tố trên dự kiến tiếp tục tạo áp lực lên VND trong ngắn hạn. UOB cho rằng, VND vẫn dao động ở vùng giá yếu trong biên độ giao dịch với USD đến hết quý III/2025. Tuy nhiên, từ quý IV/2025 trở đi, VND có thể bắt đầu lấy lại đà phục hồi, hòa nhịp cùng xu hướng cải thiện chung của các đồng tiền châu Á khi bất ổn thương mại dần lắng dịu.

Theo các chuyên gia kinh tế UOB, lạm phát tại Việt Nam đã phần nào hạ nhiệt, ở mức khoảng 3,1% so với cùng kỳ trong tháng 3 và tháng 4/2025, giảm so với mức trung bình 3,6% trong năm 2024 và 3,26% trong năm 2023, đồng thời thấp hơn mục tiêu 4,5%. Bối cảnh lạm phát ôn hòa trong khi căng thẳng thương mại toàn cầu và bất định về thuế quan gia tăng đang mở ra khả năng NHNN nới lỏng chính sách tiền tệ.

Tuy nhiên, không giống một số nước trong khu vực, sự suy yếu của tỷ giá là yếu tố khiến NHNN phải cân nhắc. UOB dự báo, NHNN sẽ giữ nguyên lãi suất chính sách, với lãi suất tái cấp vốn duy trì ở mức 4,50%.

Nếu điều kiện kinh doanh trong nước và thị trường lao động suy yếu nghiêm trọng, UOB kỳ vọng, NHNN có thể hạ lãi suất tái cấp vốn một lần xuống mức thấp trong thời kỳ Covid-19 là 4%, sau đó có thể giảm thêm 50 điểm cơ bản, xuống còn 3,50%, với điều kiện thị trường ngoại hối vẫn ổn định và Fed cắt giảm lãi suất.

Theo các chuyên gia phân tích UOB, VND sẽ tiếp tục dao động ở vùng giá yếu trong biên độ giao dịch với USD đến hết quý III/2025. Song từ quý IV/2025 trở đi, VND có thể bắt đầu lấy lại đà phục hồi, hòa nhịp cùng xu hướng cải thiện chung của các đồng tiền châu Á khi bất ổn thương mại dần lắng dịu. UOB cập nhật dự báo tỷ giá VND/USD ở mức 26.300 VND/USD trong quý III/2025, 26.100 VND/USD trong quý IV/2025, 25.900 VND/USD trong quý I/2026, 25.700 VND/USD trong quý II/2026.

Ông Pyon Young Hwan, Giám đốc phụ trách Mảng Giao dịch ngoại hối và phát sinh, Ngân hàng Shinhan Việt Nam cho rằng, nếu Fed cắt giảm lãi suất, sẽ là cơ hội để các thị trường mới nổi như Việt Nam có thêm dư địa nới lỏng chính sách tiền tệ. Việc Fed giảm lãi suất có thể giúp ổn định tỷ giá VND/USD, tạo điều kiện thuận lợi cho NHNN thực hiện các biện pháp nới lỏng chính sách tiền tệ một cách linh hoạt hơn.

Tuy nhiên, Việt Nam có thể vẫn cần duy trì mức lãi suất cao hơn Mỹ trong khoảng thời gian nhất định. Theo các chuyên gia Ngân hàng Shinhan, trong ngắn hạn, xu hướng tỷ giá VND/USD phụ thuộc vào kết quả vòng đàm phán thuế quan đầu tiên giữa Mỹ và Việt Nam. Shinhan Việt Nam dự báo, đến hết quý III/2025, tỷ giá sẽ dao động khoảng 25.600 - 26.000 VND/USD.

Số liệu mới nhất vừa được Ngân hàng Nhà nước công bố cho thấy, đến cuối tháng 3/2025, tiền gửi cả khách hàng cá nhân và tổ chức kinh tế của các tổ chức tín dụng đạt gần 15 triệu tỷ đồng, tăng 1,8% so với tháng liền trước. Trong đó, tiền gửi của dân cư đạt 7,47 triệu tỷ đồng, tăng 5,73% so với đầu năm. Tiền gửi của doanh nghiệp đạt 7,52 triệu tỷ đồng, giảm 1,92% so với cuối năm 2024, nhưng tăng hơn 158.000 tỷ đồng so với tháng trước.

Theo TS. Châu Đình Linh (Trường đại học Ngân hàng TP.HCM), tiền gửi chảy mạnh vào ngân hàng do người dân có tâm lý thận trọng trong bối cảnh nền kinh tế và các kênh đầu tư khác tiềm ẩn nhiều yếu tố rủi ro, khó lường. Dù tỷ suất sinh lời thấp hơn các kênh đầu tư khác, song gửi tiết kiệm có tính an toàn và thanh khoản cao.

Tương tự, ông Nguyễn Quang Huy, Giám đốc điều hành Khoa tài chính - Ngân hàng (Trường đại học Nguyễn Trãi) cho rằng, dù lãi suất không hấp dẫn so với nhiều kênh đầu tư khác, song phù hợp với khẩu vị rủi ro của đa số người dân (an toàn là yêu cầu số một). “Thị trường có nhiều kênh đầu tư, nhưng rất thiếu kênh đầu tư hấp dẫn cả về lợi suất, độ an toàn và tính thanh khoản. Vì vậy, tiền nhàn rỗi trong dân vẫn chảy chủ yếu vào hệ thống ngân hàng”, ông Huy nhận định.

Số liệu của Ngân hàng Nhà nước cho thấy, tính đến cuối tháng 5/2025, tín dụng toàn nền kinh tế tăng 6,52%, cao gấp gần 3 lần so với tốc độ tăng trưởng cùng kỳ năm ngoái. Như vậy, tín dụng toàn nền kinh tế đã đạt quy mô khoảng 16,6 triệu tỷ đồng, tăng thêm 1 triệu tỷ đồng so với cuối năm 2024.

Sau khi tăng nóng, thị trường bất động sản vài tháng gần đây có dấu hiệu chững lại. Theo TS. Trần Xuân Lượng, Phó viện trưởng Viện Nghiên cứu đánh giá thị trường bất động sản Việt Nam, nhà đầu tư thận trọng hơn do biến động chính trị trên thế giới, cũng như những thay đổi về thể chế trong nước. Thị trường bất động sản 6 tháng cuối năm 2025 dự đoán đi ngang, giữ trạng thái ổn định.

Nhiều chuyên gia kinh tế cũng cho rằng, sau giai đoạn tăng trưởng nóng về giá, thị trường bất động sản sẽ chững lại, cầu “lướt sóng” bất động sản giảm bớt. Thanh khoản chậm lại khiến dòng tiền đổ vào lĩnh vực này không còn chảy mạnh như nửa đầu năm.

Đối với thị trường vàng, giá vàng miếng SJC tăng 44% trong 4 tháng đầu năm, nhưng liên tiếp đi ngang trong 2 tháng gần đây. Trên thế giới, giá vàng tăng vọt từ mốc 2.624 USD/ounce đầu năm nay lên mức gần 3.500 USD/ounce cuối tháng 4/2025 và đang lình xình quanh mốc 3.400 USD/ounce.

Dù dự báo giá vàng thế giới tiếp tục đi lên, song giới chuyên gia cho rằng, giá vàng đang trong giai đoạn “có thể quay đầu bất kỳ lúc nào”. Vì vậy, nhà đầu tư cần thận trọng, chỉ nên rót vốn vào vàng nếu thực sự coi đây là tài sản phòng thủ hoặc đầu tư dài hạn.

“Rất khó dự báo giá vàng thời gian tới, song tôi cho rằng, trong bối cảnh thế giới bất ổn, các nhà đầu tư tổ chức và cá nhân tìm đến vàng để đề phòng bất trắc ngày càng tăng. Tại Việt Nam, cầu đầu tư vàng vẫn rất mạnh, nhưng nhà đầu tư phải cảnh giác, luôn sẵn sàng cho mọi bất ngờ”, ông Shaokai Fan, Giám đốc khu vực châu Á - Thái Bình Dương (không bao gồm Trung Quốc), kiêm Giám đốc Ngân hàng trung ương toàn cầu tại Hội đồng Vàng thế giới khuyến nghị.

Với kênh đầu tư chứng khoán, ông Phan Dũng Khánh, Giám đốc Tư vấn Đầu tư Maybank Investment Bank cho rằng, thị trường vẫn đón tin tích cực nhiều hơn tin tiêu cực. Dòng tiền và thanh khoản cải thiện dần đang hỗ trợ tâm lý nhà đầu tư. Tuy nhiên, để thị trường tăng trưởng mạnh mẽ, vẫn cần các thông tin mang tính nền tảng như tăng trưởng kinh tế hay thị trường nâng hạng…

Cũng theo các chuyên gia, việc Quốc hội luật hóa tài sản số, tài sản mã hóa trong Luật Công nghiệp Công nghệ số và việc hình thành Trung tâm tài chính quốc tế tại Việt Nam sẽ mở ra kênh đầu tư chính thức mới. Tuy nhiên, kênh đầu tư này đòi hỏi kiến thức chuyên môn và có độ rủi ro cao, không phù hợp với số đông nhà đầu tư.

Khi các kênh đầu tư đều bấp bênh, số đông nhà đầu tư vẫn ưu tiên yếu tố bảo toàn vốn - là ưu thế lớn nhất của tiền gửi tiết kiệm. “Điều này lý giải vì sao tiền nhàn rỗi vẫn chảy vào ngân hàng dù lãi suất tiết kiệm khá thấp”, TS. Nguyễn Trí Hiếu, chuyên gia kinh tế nói.

Đề nghị cho phép doanh nghiệp vốn điều lệ từ 500 tỷ đồng được sản xuất vàng miếng

Hiệp hội Kinh doanh vàng Việt Nam mới đây đã có công văn góp ý Dự thảo sửa đổi, bổ sung Nghị định 24 quản lý thị trường vàng (Nghị định 24).

Trong đó, đáng chú ý, Hiệp hội đã đề nghị không nên bổ sung tổ chức tín dụng, đặc biệt là các ngân hàng thương mại tham gia sản xuất, kinh doanh vàng miếng.

Lý giải điều này, VGTA cho biết, theo Luật Các tổ chức tín dụng ngày 18/1/2024, ngân hàng thương mại không có chức năng nhiệm vụ sản xuất vàng. Nhiệm vụ chính của các ngân hàng thương mại là kinh doanh tiền tệ (đặc biệt là hoạt động tín dụng) và cung ứng dịch vụ thanh toán.

"Nếu để các ngân hàng thương mại tham gia sản xuất, kinh doanh vàng miếng, các ngân hàng thương mại buộc phải sử sụng nguồn vốn khá lớn để đầu tư nhà xưởng, máy móc, đào tạo tay nghề nhân công, đầu tư vào lĩnh vực không thuộc chức năng, nhiệm vụ chính là cấp tín dụng, hỗ trợ vốn cho các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh để đạt mục tiêu tăng trưởng kinh tế", Hiệp hội cho biết.

Bên cạnh đó, các ngân hàng thương mại không phải là tổ chức chuyên sâu về sản xuất kinh doanh vàng và lịch sử đã chứng minh các ngân hàng thương mại sản xuất và kinh doanh vàng miếng không hiệu quả giai đoạn trước 2012.

“Một số ngân hàng thương mại đã để lại hậu quả ngoài mong muốn kéo dài mà nhờ sự chỉ đạo quyết tâm hiệu quả của Ngân hàng Nhà nước mới ổn định lại” - VGTA nhấn mạnh.

Ngoài ra, Hiệp hội Kinh doanh vàng Việt Nam cũng góp ý liên quan đến quy định về điều kiện được cấp giấy phép sản xuất vàng miếng đối với doanh nghiệp có vốn điều lệ 1.000 tỷ đồng trở lên.

Hiệp hội cho rằng quy định này quá chặt, chỉ 1 đến 3 doanh nghiệp sản xuất kinh doanh vàng có thể đáp ứng được điều kiện này.

Với quy định trên, số lượng doanh nghiệp tham gia sản xuất vàng miếng không đáng kể, khiến thị trường khó mở rộng và nguy cơ Nhà nước tiếp tục nắm thế độc quyền, làm giảm tính đa dạng và hạn chế nguồn cung vàng miếng.

Với lý do trên, Hiệp hội kiến nghị vốn điều lệ từ 500 tỷ đồng trở lên là phù hợp. Ngoài ra, nên tập trung về năng lực sản xuất của doanh nghiệp, về hiệu quả kinh doanh, uy tín doanh nghiệp, thương hiệu trên thị trường, mẫu mã, chất lượng sản phẩm vàng miếng; tình hình chấp hành quy định của nhà nước liên quan đến kinh doanh vàng.

Đối với việc cấp hạn mức hàng năm và giấy phép từng lần xuất khẩu, nhập khẩu vàng miếng, nhập khẩu vàng nguyên liệu đối với doanh nghiệp sản xuất vàng miếng tại dự thảo, Hiệp hội cho rằng cần được xem xét bỏ.

Bởi quy định này tăng giấy phép con, tăng thủ tục hành chính đối với doanh nghiệp, kìm hãm hoạt động xuất khẩu vàng miếng, tái tạo ngoại tệ cho đất nước. Đồng thời làm mất cơ hội sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp vì diễn biến thị trường vàng thế giới biến động liên tục, chịu tác động nhiều yếu tố.

Nếu chờ thủ tục cấp phép từng lần doanh nghiệp sẽ mất cơ hội xuất khẩu hoặc nhập khẩu với giá tốt nhất, ảnh hưởng đến hiệu quả sản xuất và hoạt động xuất khẩu.

Hiệp hội cũng đề nghị chỉ quy định Ngân hàng Nhà nước cấp hạn mức xuất nhập khẩu vàng miếng, nhập khẩu vàng nguyên liệu hàng năm, phân bổ cho từng doanh nghiệp ngay từ quý I đầu năm theo nguyên tắc công khai, minh bạch, không phát sinh giấy phép con.

Trên cơ sở đó, các doanh nghiệp chủ động lựa chọn thời điểm và khối lượng (trong hạn mức) để nhập khẩu hoặc xuất khẩu nhằm đạt hiệu quả cao nhất. Doanh nghiệp thực hiện báo cáo định kỳ về tình hình thực hiện hạn mức xuất nhập khẩu vàng với Ngân hàng Nhà nước. Việc điều chỉnh bổ sung hạn mức do Ngân hàng Nhà nước xem xét, quyết định.

Ngoài ra, đề nghị Ban soạn thảo cân nhắc về cơ chế nên khuyến khích nhập vàng nguyên liệu để sản xuất vàng miếng, vàng trang sức đáp ứng nhu cầu thị trường trong nước và phục vụ xuất khẩu, tái tạo ngoại tệ, không nên tạo cơ chế về hoạt động mang tính thương mại (nhập khẩu và xuất khẩu vàng miếng).

Hộ kinh doanh nông nghiệp được vay tối đa 500 triệu đồng không tài sản thế chấp

Chính phủ vừa ban hành Nghị định số 156/2025/NĐ-CP sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 55/2015/NĐ-CP ngày 09/6/2015 của Chính phủ về chính sách tín dụng phục vụ phát triển nông nghiệp, nông thôn đã được sửa đổi, bổ sung một số điều theo Nghị định số 116/2018/NĐ-CP ngày 07/9/2018 của Chính phủ.

Theo đó, Nghị định nâng mức cho vay tối đa không có tài sản bảo đảm đối với cá nhân, hộ gia đình, tổ hợp tác, hộ kinh doanh, hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã và chủ trang trại để phù hợp với nhu cầu vốn phục vụ sản xuất nông nghiệp của các khách hàng hiện nay.

Cụ thể, mức cho vay không có tài sản bảo đảm đối với cá nhân, hộ gia đình được tăng từ mức 100-200 triệu đồng lên mức 300 triệu đồng.

Mức cho vay không có tài sản bảo đảm đối với tổ hợp tác và hộ kinh doanh được tăng từ mức 300 triệu đồng lên mức 500 triệu đồng.

Mức cho vay không có tài sản bảo đảm đối với chủ trang trại được tăng từ mức 01 - 02 tỷ đồng lên mức 03 tỷ đồng.

Mức cho vay không có tài sản bảo đảm đối với hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã được tăng từ mức 01 - 03 tỷ đồng lên mức 05 tỷ đồng.

Nghị định cũng cắt giảm thủ tục hành chính, tạo thuận lợi cho khách hàng khi vay vốn tại các tổ chức tín dụng. Theo đó, bỏ nội dung liên quan đến yêu cầu nộp giấy xác nhận chưa được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và đất không có tranh chấp do Ủy ban nhân dân cấp xã xác nhận; đồng thời quy định khách hàng được vay không có tài sản bảo đảm và tổ chức tín dụng thỏa thuận (thay vì yêu cầu bắt buộc như quy định trước đây) về việc khách hàng nộp cho tổ chức tín dụng giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu tài sản gắn liền với đất của khách hàng trong thời gian vay không có tài sản bảo đảm tại tổ chức tín dụng.

Nghị định cũng sửa đổi quy định về cơ cấu lại thời hạn trả nợ, giữ nguyên nhóm nợ và trích lập dự phòng để xử lý rủi ro theo hướng giao ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định việc cơ cấu lại thời hạn trả nợ đối với các khoản nợ được giữ nguyên nhóm nợ theo Nghị định 55/2015/NĐ-CP; đồng thời hướng dẫn về phân loại nợ, trích lập dự phòng rủi ro đối với các khoản nợ được giữ nguyên nhóm nợ để phù hợp với Luật Các tổ chức tín dụng năm 2024 và các quy định pháp luật có liên quan.

Các nội dung được bổ sung mới trong Nghị định là: Bổ sung một số khái niệm liên quan đến chính sách khoanh nợ để tạo điều kiện thuận lợi cho công tác khoanh nợ và phù hợp với thực tế khoanh nợ trong thời gian qua; Bổ sung chính sách tín dụng khuyến khích nông nghiệp hữu cơ, tuần hoàn được hưởng chính sách tín dụng tương tự như khách hàng sản xuất nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao, liên kết trong sản xuất nông nghiệp (về mức cho vay không có tài sản bảo đảm, cơ chế xử lý rủi ro) để phù hợp với xu thế phát triển nông nghiệp theo các mô hình mới hiện nay theo chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ...

Việc sửa đổi, bổ sung Nghị định nhằm phù hợp với thực tế nhu cầu vốn cho sản xuất nông nghiệp hiện nay và tiếp tục phát huy hiệu quả, đi vào cuộc sống trong thời gian tới theo đúng chủ trương, chỉ đạo của Đảng, Nhà nước, góp phần khơi thông nguồn lực hơn nữa cho lĩnh vực nông nghiệp nông thôn, đóng góp chung vào phấn đấu hoàn thành mục tiêu tăng tốc, bứt phá, về đích trong phát triển kinh tế - xã hội của cả nước trong thời gian tới cũng như phù hợp với mô hình chính quyền địa phương 2 cấp.

Nghị định sẽ có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01 tháng 7 năm 2025.

Chia lửa chất vấn, Thống đốc cảnh báo huy động vốn phải tính toán khả năng trả nợ

"Chia lửa" với Bộ trưởng Bộ tài chính Nguyễn Văn Thắng trong phiên chất vấn sáng 19/6, Thống đốc ngân hàng Nhà nước (NHNN) Nguyễn Thị Hồng cho rằng, cần đa dạng nguồn vốn cho nền kinh tế, thay vì chỉ dựa vào vốn ngân hàng. Tuy vậy, Thống đốc cũng cảnh báo khi huy động vốn cho các Dự án lớn cần tính toán khả năng vay và trả nợ.

Theo Thống đốc, tăng trưởng của nền kinh tế Việt Nam hiện nay đang dựa rất lớn vào vốn nhưng hiệu quả chưa cao, thể hiện ở chỉ số ICOR còn cao so với khu vực, cho thấy hiệu quả sử dụng vốn cần phải nâng cao hơn nữa.

Dù thời gian qua, Việt Nam thu hút lượng vốn đầu tư nước ngoài rất lớn, đặc biệt là vốn FDI, song lại chưa tận dụng được nhiều lợi thế về vốn, đặc biệt là về chuyển giao công nghệ, khả năng quản trị, chưa kết nối được với khu vực trong nước. Thống đốc cho rằng, thời gian tới cần có sự "làm mới" trong chiến lược thu hút vốn FDI theo hướng đẩy mạnh chuyển giao công nghệ, quản trị và gắn với nền kinh tế trong nước nhiều hơn.

Tán thành ý kiến của Bộ trưởng Bộ Tài chính về việc muốn tăng trưởng kinh tế cao cần dựa vào cả vốn trong nước và nước ngoài, Thống đốc cho rằng, vốn nước ngoài rất đa dạng như: vốn FDI, vốn FII, vay nợ nước ngoài... Với chỉ tiêu nợ công, nợ nước ngoài hiện nay, dư địa vay nợ nước ngoài của Việt Nam còn rất rộng mở.

Tuy vậy, từ kinh nghiệm điều hành vĩ mô, Thống đốc lưu ý về việc vay vốn, sử dụng vốn.

Cụ thể, theo Thống đốc, vốn trong nước hiện nay đang phụ thuộc rất lớn hệ thống ngân hàng, kể cả vốn ngắn hạn lẫn vốn trung, dài hạn. Dư nợ tín dụng/GDP cuối năm 2024 đã lên tới mức 134%, nếu tiếp tục tăng sẽ tiềm ẩn rủi ro cho hệ thống ngân hàng và gây hệ lụy cho nền kinh tế, khó đạt mục tiêu vừa tăng trưởng kinh tế cao, vừa bền vững.

"Đây là vấn đề mà các bộ ngành thời gian tới cần hết sức lưu ý khi cân đối vốn cho các mục tiêu tăng trưởng kinh tế cao", Thống đốc đề nghị.

Lãnh đạo NHNN cũng cho rằng, cầu vốn đầu tư trong nước thời gian tới là rất lớn. Từ nay đến năm 2030, tầm nhìn 2045 và đặc biệt 2030, dự kiến sẽ triển khai nhiều công trình có nguồn vốn đầu tư lớn, ví dụ như xây dựng thêm 2.000 km đường cao tốc (hiện đang triển khai dự án cao tốc Bắc Nam với tổng vốn đầu tư lớn), đầu tư xây dựng nhiều sân bay, bến cảng, quy hoạch điện VIII...

Thống đốc khuyến nghị, ngay từ bây giờ, các bộ, ngành chức năng cần tính toán huy động vốn từ đâu, khả năng vay và trả nợ như thế nào, thời gian phân kỳ vốn, dự phòng nguồn vốn ra sao... để đảm bảo không tạo áp lực lớn để rủi ro vĩ mô.

NHNN cho biết, với vai trò huyết mạch của nền kinh tế, những năm qua, tín dụng của hệ thống ngân hàng tăng trung bình 14-15%/năm, mức cao so với khu vực. Năm 2025, để phục vụ mục tiêu tăng trưởng cao từ 8% trở lên, NHNN đã đưa ra chỉ tiêu tăng trưởng 16% và có thể điều chỉnh nếu lạm phát trong tầm kiểm soát.

"Trong bối cảnh kinh tế có độ mở lớn, thời gian qua điều hành chính sách tiền tệ có nhiều cố gắng. Thời gian tới, NHNN sẽ tiếp tục bám sát diễn biến để thực hiện các công cụ điều hành, thời gian và liều lượng hợp lý để kiểm soát lạm phát, ổn định vĩ mô, ổn định thị trường tiền tệ ngoại hối và an toàn hệ thống ngân hàng. Đây là điểm căn cốt bởi nếu kinh tế vĩ mô, tiền tệ, ngoại hối biến động như trước đây thì doanh nghiệp rất khó phát triển", Thống đốc cam kết.

Gần 43% ngân hàng trung ương có kế hoạch “ôm” thêm vàng dự trữ năm tới

Theo dữ liệu năm 2025 vừa được Hội đồng Vàng Thế giới (WGC) vừa công bố, có 95% các nhà quản lý dự trữ cho biết họ kỳ vọng các ngân hàng trung ương sẽ tiếp tục tăng lượng vàng dự trữ trong 12 tháng tới. Đây là mức cao kỷ lục so với kết quả các cuộc khảo sát từ năm 2019 đến nay. Các nhà quản lý dự trữ vẫn giữ quan điểm tích cực đối với vàng trong bối cảnh vàng đạt nhiều mức giá cao kỉ lục và các ngân hàng trung ương duy trì mua vàng trong 15 năm liên tiếp.

Thực tế, khảo sát Dự trữ vàng của Ngân hàng trung ương (CBGR) năm 2025 với dữ liệu thu thập từ 73 ngân hàng trung ương trên toàn cầu cho thấy, gần 43% các ngân hàng trung ương có kế hoạch tăng lượng vàng dự trữ trong năm tới.

Việc các ngân hàng trung ương trên toàn cầu tiếp tục có kế hoạch mua thêm vàng dự trữ cho thấy, vàng tiếp tục đóng vai trò là tài sản tích trữ an toàn giúp giảm thiểu rủi ro trong bối cảnh bất ổn kinh tế và địa chính trị kéo dài gây áp lực lên các nhà quản lý dự trữ.

Ba lý do chính khiến các ngân hàng trung ương và các nhà quản lý dự trữ đang ưu tiên giữ vàng làm tài sản ở thời điểm hiện tại là: khả năng bảo toàn giá trị trong dài hạn của vàng (80%), vai trò của vàng như một công cụ đa dạng hóa danh mục đầu tư hiệu quả (81%), và hiệu suất của vàng trong thời kì khủng hoảng (85%).

Các ngân hàng trung ương tại các thị trường mới nổi và các nền kinh tế đang phát triển (EMDE) một lần nữa giữ vững triển vọng tích cực đối với tỷ trọng của vàng trong danh mục dự trữ trong tương lai.

Có 28/58 (48%) các nước thuộc EMDE tham gia cuộc khảo sát cho rằng lượng vàng dự trữ của họ sẽ tăng lên trong 12 tháng tới, trong khi 3/14 (chiếm 21%) các nền kinh tế phát triển có dự định tương tự, cao hơn so với năm ngoái.

Lãi suất vẫn là yếu tố then chốt thúc đẩy nhu cầu nắm giữ vàng ở cả hai nhóm quốc gia trên. Tuy vậy, trong khi lạm phát (84%) và tình hình địa chính trị (81%) là mối quan tâm hàng đầu đối với các nước thuộc EMDE. Trong khi đó, 67% và 60% người tham gia khảo sát từ các nền kinh tế phát triển cũng có cùng mối lo ngại.

Đáng chú ý, ngày càng có nhiều ngân hàng trung ương tăng giữ vàng trong nước. Cụ thể, có 59% các ngân hàng trung ương lưu trữ vàng trong kho dự trữ quốc gia, tăng lên so với con số 41% ghi nhận trong năm 2024.

Bên cạnh đó, hầu hết các ngân hàng trung ương tham gia cuộc khảo sát (73%) cho rằng tỷ lệ nắm giữ đồng USD trong dự trữ toàn cầu sẽ sụt giảm ở mức trung bình hoặc cao trong 5 năm tới. Tuy nhiên, các tổ chức này cũng cho rằng tỷ trọng các loại tiền tệ khác (như Euro hay Nhân dân tệ) và vàng trong dự trữ toàn cầu sẽ tăng lên trong khoảng thời gian nêu trên.

Ông Shaokai Fan, Giám đốc khu vực Châu Á-Thái Bình Dương (không bao gồm Trung Quốc) kiêm Giám đốc Ngân hàng Trung ương Toàn cầu tại Hội đồng Vàng Thế giới khẳng định, con số gần một nửa số ngân hàng trung ương tham gia khảo sát có ý định tăng lượng vàng nắm giữ trong năm tới, đặt trong bối cảnh vàng đạt nhiều mức giá kỉ lục trong năm 2025 là điều đáng chú ý.

“Con số này phản ánh tình hình tài chính và địa chính trị toàn cầu hiện tại. Đồng thời, cho thấy vàng giữ vững vai trò là tài sản chiến lược trong bối cảnh thế giới đang đối mặt với bất ổn và biến động. Những lo ngại về lãi suất, lạm phát, và tình hình bất ổn thúc đẩy các ngân hàng trung ương chuyển sang vàng nhằm giảm thiểu rủi ro”, ông Shaokai Fan nhận định.

Tỷ giá được kỳ vọng giảm dần về cuối năm

Nhiều nhà đầu tư kỳ vọng hơn về việc Fed sẽ hạ lãi suất sau khi dữ liệu kinh tế của Mỹ được công bố cho thấy, Chỉ số Giá tiêu dùng (CPI) tháng 5/2025 thấp hơn so với dự báo. Theo đó, CPI của Mỹ tăng 0,1% trong tháng 5, thấp hơn so với mức dự báo 0,2% của các nhà kinh tế do Dow Jones khảo sát. Vì vậy, nhà đầu tư dự báo xác suất 80% Fed sẽ hạ lãi suất vào tháng 9/2025, đợt hạ lãi suất thứ hai sớm nhất là vào tháng 10.

Trên thị trường thế giới, giá đồng bạc xanh giảm mạnh trước những ảnh hưởng từ kỳ vọng Fed giảm lãi suất, căng thẳng địa chính trị, dữ liệu lạm phát tại Mỹ thấp hơn dự kiến, cũng như diễn biến trong đàm phán thương mại Mỹ - Trung. Chỉ số USD-Index giảm xuống 97,86 điểm trong phiên cuối tuần - giảm hơn 9% so với đầu năm. Sự suy yếu này chủ yếu đến từ lo ngại tăng trưởng kinh tế và chính sách thương mại từ Mỹ.

Ông Đinh Đức Quang, Giám đốc Khối Kinh doanh tiền tệ, ngân hàng UOB Việt Nam cho rằng, với triển vọng lãi suất USD theo xu hướng giảm, đi cùng các khó khăn trong ngắn hạn do tác động từ biến động thuế quan đối với triển vọng kinh tế và thu hút dòng vốn đầu tư vào các tài sản tại Mỹ, UOB dự báo, Chỉ số USD-Index có thể chịu áp lực xuống dưới mốc 100 trong các tháng còn lại năm 2025 và có thể quanh mức 97 vào đầu năm 2026.

PGS-TS. Nguyễn Hữu Huân, Giảng viên cấp cao Đại học Kinh tế TP.HCM cho biết, Chỉ số USD-Index giảm đã giúp giảm áp lực lên tỷ giá VND/USD. Tuy nhiên, tỷ giá vẫn đang duy trì ở mức cao, cho thấy áp lực này vẫn hiện hữu. Bên cạnh đó, tỷ giá có xu hướng mang tính mùa vụ, giai đoạn hiện tại có thể giảm, nhưng dự kiến bắt đầu tăng trở lại vào khoảng tháng 8/2025.

Tỷ giá VND/USD trung tâm do Ngân hàng Nhà nước (NHNN) niêm yết ngày 13/6 giảm 15 VND, xuống 24.975 VND/USD. Các ngân hàng thương mại giữ giá USD đứng yên, Vietcombank mua vào 25.820 - 25.850 VND/USD, bán ra 26.210 VND/USD.

Trong báo cáo công bố ngày 9/6/2025, UOB cho biết, từ đầu quý đến nay, VND đã mất giá 1,8%, chạm mức thấp kỷ lục mới 26.000 VND/USD. Sự suy yếu này chủ yếu xuất phát từ triển vọng kinh tế kém tích cực, rủi ro gia tăng về khả năng Mỹ tái áp mức thuế 46% nếu các cuộc đàm phán không đạt được tiến triển rõ rệt.

Những yếu tố trên dự kiến tiếp tục tạo áp lực lên VND trong ngắn hạn. UOB cho rằng, VND vẫn dao động ở vùng giá yếu trong biên độ giao dịch với USD đến hết quý III/2025. Tuy nhiên, từ quý IV/2025 trở đi, VND có thể bắt đầu lấy lại đà phục hồi, hòa nhịp cùng xu hướng cải thiện chung của các đồng tiền châu Á khi bất ổn thương mại dần lắng dịu.

Theo các chuyên gia kinh tế UOB, lạm phát tại Việt Nam đã phần nào hạ nhiệt, ở mức khoảng 3,1% so với cùng kỳ trong tháng 3 và tháng 4/2025, giảm so với mức trung bình 3,6% trong năm 2024 và 3,26% trong năm 2023, đồng thời thấp hơn mục tiêu 4,5%. Bối cảnh lạm phát ôn hòa trong khi căng thẳng thương mại toàn cầu và bất định về thuế quan gia tăng đang mở ra khả năng NHNN nới lỏng chính sách tiền tệ.

Tuy nhiên, không giống một số nước trong khu vực, sự suy yếu của tỷ giá là yếu tố khiến NHNN phải cân nhắc. UOB dự báo, NHNN sẽ giữ nguyên lãi suất chính sách, với lãi suất tái cấp vốn duy trì ở mức 4,50%.

Nếu điều kiện kinh doanh trong nước và thị trường lao động suy yếu nghiêm trọng, UOB kỳ vọng, NHNN có thể hạ lãi suất tái cấp vốn một lần xuống mức thấp trong thời kỳ Covid-19 là 4%, sau đó có thể giảm thêm 50 điểm cơ bản, xuống còn 3,50%, với điều kiện thị trường ngoại hối vẫn ổn định và Fed cắt giảm lãi suất.

Theo các chuyên gia phân tích UOB, VND sẽ tiếp tục dao động ở vùng giá yếu trong biên độ giao dịch với USD đến hết quý III/2025. Song từ quý IV/2025 trở đi, VND có thể bắt đầu lấy lại đà phục hồi, hòa nhịp cùng xu hướng cải thiện chung của các đồng tiền châu Á khi bất ổn thương mại dần lắng dịu. UOB cập nhật dự báo tỷ giá VND/USD ở mức 26.300 VND/USD trong quý III/2025, 26.100 VND/USD trong quý IV/2025, 25.900 VND/USD trong quý I/2026, 25.700 VND/USD trong quý II/2026.

Ông Pyon Young Hwan, Giám đốc phụ trách Mảng Giao dịch ngoại hối và phát sinh, Ngân hàng Shinhan Việt Nam cho rằng, nếu Fed cắt giảm lãi suất, sẽ là cơ hội để các thị trường mới nổi như Việt Nam có thêm dư địa nới lỏng chính sách tiền tệ. Việc Fed giảm lãi suất có thể giúp ổn định tỷ giá VND/USD, tạo điều kiện thuận lợi cho NHNN thực hiện các biện pháp nới lỏng chính sách tiền tệ một cách linh hoạt hơn.

Tuy nhiên, Việt Nam có thể vẫn cần duy trì mức lãi suất cao hơn Mỹ trong khoảng thời gian nhất định. Theo các chuyên gia Ngân hàng Shinhan, trong ngắn hạn, xu hướng tỷ giá VND/USD phụ thuộc vào kết quả vòng đàm phán thuế quan đầu tiên giữa Mỹ và Việt Nam. Shinhan Việt Nam dự báo, đến hết quý III/2025, tỷ giá sẽ dao động khoảng 25.600 - 26.000 VND/USD.

T.L

Nguồn Đầu Tư: https://baodautu.vn/tien-gui-van-chay-vao-ngan-hang-kien-nghi-von-dieu-le-500-ty-dong-duoc-san-xuat-vang-mieng-d310346.html
Zalo