Tiền các chúa Nguyễn ở Đàng Trong (1558-1777)

Nguyễn Hoàng là một đại thần nhà Lê. Năm 1558 ông được lệnh vào trấn thủ đất Thuận Hóa. Năm 1570, ông kiêm quản cả xứ Quảng Nam. Năm 1593, ông được phong làm Thái úy Đoan Quận công, được triều đình Lê -Trịnh cho phép quản lý vùng Thuận Quảng, hàng năm nộp thuế cho triều đình...

Tiền các chúa Nguyễn ở Đàng Trong (1558-1777)

Nguyễn Hoàng là một đại thần nhà Lê. Năm 1558 ông được lệnh vào trấn thủ đất Thuận Hóa. Năm 1570, ông kiêm quản cả xứ Quảng Nam. Năm 1593, ông được phong làm Thái úy Đoan Quận công, được triều đình Lê -Trịnh cho phép quản lý vùng Thuận Quảng, hàng năm nộp thuế cho triều đình. Trong thời gian ở Thuận Quảng, bên ngoài Nguyễn Hoàng thần phục nhà Lê, nhưng bên trong mở mang bờ cõi, thành lập một giang sơn riêng từ Thuận Hóa trở vào Nam, chuẩn bị mọi mặt chống lại chúa Trịnh.

Về mặt kinh tế, Nguyễn Hoàng lập nhiều chợ, phát triển nội thương, ngoại thương. Tàu thuyền các nước, nhất là tàu Trung Hoa và Nhật Bản, ra vào khá nhộn nhịp.

Về phương diện tiền tệ, để đáp ứng nhu cầu một nền kinh tế sản xuất hàng hóa, do tiền bằng kẽm, chì, sắt không đảm bảo, nên năm 1724 chúa Nguyễn cấm lưu thông loại tiền làm bằng những chất liệu trên và chủ trương đúc tiền đồng. Nhưng đồng lại rất hiếm, các chúa phải mua đồng, kẽm của Trung Hoa, Nhật Bản, Hà Lan với giá rất cao. Do đó, chúa Nguyễn nhập khẩu tiền từ nhà Thanh của Trung Hoa và cho Mạc Thiên Tứ mở lò đúc tiền ở Hà Tiên. Các chúa Nguyễn không xưng vương nên không đặt niên hiệu. Do đó, các đồng tiền đúc tại lò Mạc Thiên Tứ thường lấy niên hiệu của một số vương triều trong nước đã từng tồn tại trong lịch sử, nhưng cũng có loại tiền không thuộc niên hiệu nào. Tiền thường có đường kính nhỏ, mỏng. Các nhà nghiên cứu có nhiều ý kiến khác nhau về loại tiền này. Đa số đều cho loại tiền đó thuộc lò đúc của Mạc Thiên Tứ.

Đặc biệt, có hai loại tiền dưới đây của chúa Nguyễn được nhiều người thừa nhận:

- Tiền Thái Bình thông bảo 太平通寳

Tiền đúc bằng đồng. Mặt tiền đúc nổi 4 chữ “Thái Bình thông bảo”- 太平通寳. Về tự dạng thì nét chấm, phẩy ở chữ “Bình”- 平 không giống chữ Bình của các đồng tiền có xuất xứ, nguồn gốc thuộc niên hiệu khác. Mặt lưng có các ký hiệu: 1 chấm, 2 chấm, 1 gạch ngang, chấm phẩy v.v. Đường kính 24 mm, nặng từ 2,8 g đến 3,5g.

Ảnh 1.9.1. Tiền Thái Bình thông bảo 太平通寳, kiểu chữ Chân, lưng tiền có 1 Chấm hoặc 2 Chấm, đường kính 24mm

Ảnh 1.9.1. Tiền Thái Bình thông bảo 太平通寳, kiểu chữ Chân, lưng tiền có 1 Chấm hoặc 2 Chấm, đường kính 24mm

- Tiền Thiên Minh thông bảo 天明通寳

Tiền đúc bằng kẽm. Mặt trước đúc nổi 4 chữ “Thiên Minh thông bảo”- 天明通寳. Lưng tiền để trơn hoặc có 1 chấm tròn. Tiền này do Nguyễn Phúc Khoát đúc năm 1746. Đường kính 23 mm, dày 1mm, trọng lượng 3,3g.

Ảnh 1.9.2. Tiền Thiên Minh thông bảo 天明通寳, kiểu chữ Chân, lưng tiền có chấm tròn, đường kính 23 mm

Ảnh 1.9.2. Tiền Thiên Minh thông bảo 天明通寳, kiểu chữ Chân, lưng tiền có chấm tròn, đường kính 23 mm

Tiền Thiên Minh thông bảo đúc nhiều đợt, năm Bính Dần (1746), Đinh Mão (1747), Mậu Thìn (1748) đúc được 72.396 quan.

Như sự xuất hiện tiền đúc bằng kẽm đúc năm 1746, 1747 và 1748, với số lượng 72.396 quan, chứng tỏ, hoàn cảnh thiếu nguyên liệu đồng trầm trọng, nên lệnh cấm của chúa Nguyễn năm 1724 chưa được triệt để thực hiện.

Ngoài hai loại tiền nói trên, trên địa bàn các chúa Nguyễn quản lý còn có các loại tiền Trung Hoa từ thời Đường đến thời Tống, Nguyên, Minh, Thanh. Các loại tiền này có nhiều nguồn: Thương gia Nhật nhập khẩu tiền Trung Hoa rồi mang sang Việt Nam, chúa Nguyễn cũng nhập tiền Trung Hoa, thương gia Trung Hoa mang sang.

Vì vậy, vào thế kỷ XVII-XVIII, trên địa bàn các chúa Nguyễn Đàng Trong quản lý, tiền được lưu thông trên thị trường rất phong phú và đa dạng bao gồm: Tiền của chúa Nguyễn, các loại tiền thời Lê, tiền Nhật Bản, tiền Trung Hoa, tiền Triều Tiên, tiền Mậu Dịch.

Nguồn: Tác phẩm: ''Lịch sử đồng tiền Việt Nam'' của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam

Biên tập: Mạnh - Thắng | Đồ họa:Văn Lâm

Lâm.TV

Nguồn TBNH: https://thoibaonganhang.vn/tien-cac-chua-nguyen-o-dang-trong-1558-1777-169153.html
Zalo