Thủy điện làm thay đổi dòng chảy tự nhiên, biến hạ du thành 'túi hứng' nước

Theo TS Nguyễn Hồng Hạnh, một trong những công dụng của thủy điện là cắt lũ, nhưng khả năng này rất thấp khi đối diện với lượng mưa cực đoan. Vì vậy, cần thiết có quy chế vận hành liên hồ chứa nghiêm ngặt.

Miền Trung vừa trải qua một “mùa thiên tai” được đánh giá là khốc liệt bậc nhất trong lịch sử. Bão nối bão, lũ chồng lũ đã gây thiệt hại nghiêm trọng trên diện rộng từ Quảng Trị đến Bình Thuận, nhiều khu vực ghi nhận mực nước vượt mọi kỷ lục trước đây.

Trong bối cảnh thời tiết cực đoan ngày càng gia tăng do biến đổi khí hậu, câu hỏi đặt ra là: công tác quy hoạch đô thị và nông thôn của chúng ta đã thực sự tính toán đầy đủ những kịch bản rủi ro mới này hay chưa? Việc phát triển quá mức, đặc biệt là bê tông hóa đô thị, lấn chiếm vùng trũng, cùng mật độ thủy điện ngày một dày, có đang vô tình làm tăng nguy cơ ngập lụt ở hạ du?

Để làm rõ những vấn đề cốt lõi và tìm kiếm giải pháp căn cơ, bền vững nhằm giảm thiểu tác động của mưa lũ tại miền Trung trong tương lai, phóng viên Tạp chí Một Thế Giới đã có cuộc trao đổi với TS Nguyễn Hồng Hạnh, Viện trưởng Viện Nghiên cứu Kinh tế Xây dựng và Đô thị.

4 nguyên nhân gây ngập lụt đô thị nghiêm trọng

- Miền Trung đang trải qua một mùa mưa lũ lịch sử, với những đợt bão chồng bão, lũ chồng lũ, gây ra hậu quả hết sức nặng nề. Theo góc độ chuyên môn về quy hoạch, bà đánh giá vấn đề này như thế nào?

- TS Nguyễn Hồng Hạnh: Đây là một vấn đề không phải có thể giải quyết trong một sớm một chiều.

Chúng ta đều biết, Việt Nam là một trong những quốc gia chịu tác động mạnh mẽ nhất của biến đổi khí hậu trên thế giới. Riêng năm 2025, số lượng cơn bão đổ bộ vào Việt Nam đã đạt mức kỷ lục, gây ra thiệt hại cực kỳ lớn cho cả người dân và đất nước. Điều này đặt ra câu hỏi lớn về công tác quy hoạch của chúng ta, bao gồm cả quy hoạch tích hợp (theo Luật Quy hoạch 2017) và quy hoạch đô thị, nông thôn.

Quy hoạch tích hợp mang tính vĩ mô, đa ngành, và toàn diện, nhưng đôi khi còn quá khái quát, trong đó, quy hoạch đô thị và nông thôn là một nội dung với việc định hướng phát triển cho các đô thị trong phạm vi ranh giới 1 tỉnh, thành phố.

Quy hoạch chung đô thị là tổ chức sắp xếp các khu chức chức năng của đô thị và hệ thống hạ tầng của đô thị đó, sự nghiên cứu sâu cho toàn vùng có liên quan thường chưa có sự phối hợp chặt chẽ với các ngành có liên quan và cũng chưa nhận được sự chia sẻ thông tin về thiên tai, địa chất… của vùng đô thị. Đây chính là một trong những nguyên nhân tạo ra những tác động trực tiếp từ thiên tai.

- Theo bà, đâu là những nguyên nhân chính dẫn đến thiệt hại lớn của cả đô thị và nông thôn trong các đợt bão lũ, đặc biệt là tình trạng ngập lụt đô thị ngày càng nghiêm trọng?

- TS Nguyễn Hồng Hạnh: Thiệt hại ở nông thôn thường trực tiếp đến đời sống bà con như sạt lở núi, đổ nhà, mất kế sinh nhai và hoa màu. Tuy nhiên, ngập lụt đô thị lại gây ra thiệt hại lớn hơn rất nhiều trên nền kinh tế xã hội tổng thể.

Tôi xác định có 4 nguyên nhân chính, trong đó phần lớn là do con người tạo nên:

Thứ nhất là phá vỡ bộ khung thiên nhiên (phá rừng): Đây là nguyên nhân đầu tiên và quan trọng. Với 3/4 diện tích là núi, sự phát triển kinh tế quá nóng đã dẫn đến việc tác động quá mạnh vào bộ khung thiên nhiên. Việc san gạt, phá rừng đã làm cho thảm thực vật bị suy giảm nghiêm trọng.

Hậu quả là đất đai trên vùng núi không còn rễ cây lớn và các thảm thực vật để giữ nước, dẫn đến tình trạng khi mưa lớn kéo dài, đất đá rất dễ dàng trôi tuột xuống, gây ra sạt lở nghiêm trọng. Dù con số che phủ rừng có thể đạt 42% (theo luật), nhưng chất lượng rừng, đặc biệt là rừng tự nhiên, đã bị suy giảm đáng kể.

Thứ hai là sự phát triển thủy điện và vận hành hồ chứa. Phát triển thủy điện là nhu cầu tất yếu để đáp ứng năng lượng cho phát triển kinh tế nhanh. Thủy điện được kỳ vọng có khả năng cắt lũ, nhưng thực tế cho thấy khả năng này rất thấp.

Khi hồ thủy điện đầy do mưa lớn tràn về, nếu không xả lũ kịp thời, đập có nguy cơ bị vỡ, gây ra hậu quả thảm khốc hơn. Việc xả lũ của các hồ thủy điện và cả các hồ do tổ chức kinh tế/tư nhân xây dựng ở vùng đồi núi là một nguồn nước lớn đổ dồn xuống hạ du.

Tuy nhiên, việc vận hành liên hồ theo Nghị định và Thông tư của Chính phủ hiện nay còn rất hạn chế. Sự phối hợp giữa các hồ chưa hiệu quả, dẫn đến việc xả lũ đồng loạt, làm gia tăng lũ hạ du một cách nghiêm trọng.

Một trong những công dụng của thủy điện là cắt lũ, nhưng khả năng rất thấp khi đối diện với mưa cực đoan.

TS Nguyễn Hồng Hạnh, Viện trưởng Viện Nghiên cứu Kinh tế Xây dựng và Đô thị

Thứ ba là bê tông hóa và lấp vùng trũng đô thị. Đây là nguyên nhân trực tiếp nhất gây ngập lụt đô thị. Trong quá trình phát triển đô thị, hầu hết các không gian chứa nước tự nhiên (vùng trũng, vùng ven hồ, hệ thống sông hồ) đã bị xâm lấn và bê tông hóa để xây dựng các dự án kinh tế.

Thứ tư là quy hoạch thiếu tính đánh giá và dự báo. Nguyên nhân này liên quan đến chính công tác quy hoạch. Lâu nay, công tác đánh giá thực trạng điều kiện tự nhiên của chúng ta nhiều hạn chế.

Giữa việc đánh giá và lựa chọn đất phát triển đô thị (nơi nào đất không thuận lợi/nguy cơ cao về sạt lở, thiên tai thì không nên lựa chọn) tuy nhiên theo nhu cầu kinh tế/nhà đầu tư các khu vực này nhiều khi vẫn được lựa chọn để phát triển, dẫn đến những hậu quả nhãn tiền mà chúng ta đang chứng kiến.

- Bà có thể phân tích rõ hơn về tác động tiêu cực của việc phát triển thủy điện dày đặc đối với khả năng điều tiết lũ ở cả lưu vực sông, đặc biệt trong bối cảnh mưa lớn cực đoan?

- TS Nguyễn Hồng Hạnh: Về vấn đề này, cần nhấn mạnh rằng bản chất của thủy điện, như tôi đã nói, là khả năng cắt lũ rất thấp khi đối diện với mưa cực đoan.

Trong giai đoạn thiết kế và thẩm định dự án thủy điện, việc đánh giá cần phải sâu, kỹ, tổng thể, và toàn diện hơn rất nhiều. Cụ thể:

Dự báo dung tích hồ: Dung tích hồ chứa phải được so sánh và đánh giá dựa trên lượng mưa lịch sử (ví dụ: 100 năm gần nhất) và quan trọng hơn cả là cần dự báo với kịch bản biến đổi khí hậu trong tương lai để đề xuất quy mô dung tích hồ chứa phù hợp đảm bảo vận hành nhà máy hiệu quả và có thể cắt lũ mà không ảnh hưởng đến đời sỗng dân cư vùng hạ du.

Vận hành liên hồ yếu kém: Việc phát triển dày đặc đồng nghĩa với việc có nhiều hồ trên cùng một lưu vực sông. Vận hành liên hồ cần phải có quy định rất rõ ràng về thời điểm xả/không xả giữa các hồ.

Phát triển thủy điện dày đặc nhưng vận hành rất kém!

TS Nguyễn Hồng Hạnh, Viện trưởng Viện Nghiên cứu Kinh tế Xây dựng và Đô thị

Cần có sự phối hợp nhịp nhàng, có trách nhiệm để giảm thiểu tối đa lượng nước đổ xuống hạ du khi mưa lớn. Hiện nay, việc vận hành này ở miền Trung rõ ràng còn rất yếu kém, dẫn đến hậu quả lũ hạ du nghiêm trọng mà chúng ta đang thấy.

Thực tế là việc xây dựng thủy điện đã làm thay đổi dòng chảy tự nhiên, gây sạt lở bờ sông, và quan trọng nhất là làm mất đi khả năng tự điều tiết của lưu vực sông khi xảy ra mưa lớn, biến các vùng hạ du thành "túi hứng" nước.

Giải pháp căn cơ và cấp bách cho miền Trung

- Với những phân tích vừa rồi, theo bà, đâu là giải pháp để giảm thiểu rủi ro thiên tai, đặc biệt là ngập lụt, tại miền Trung trong tương lai?

- TS. Nguyễn Hồng Hạnh: Giải pháp phải rất căn cơ, lâu dài, đồng bộ, và đòi hỏi những cơ chế chính sách trên nhiều lĩnh vực khác nhau. Tôi muốn nhấn mạnh rằng, giải pháp phải bắt đầu từ công tác quy hoạch.

Thứ nhất là quy hoạch liên tỉnh, liên vùng. Điều cấp bách nhất là phải thực hiện quy hoạch liên tỉnh, liên vùng. Miền Trung không thể quy hoạch theo từng tỉnh đơn lẻ, mà phải xét trên một tổng thể lớn.

Có thể cần quy hoạch theo toàn vùng miền Trung hoặc theo các vùng như Bắc Trung Bộ, Trung Trung Bộ, Nam Trung Bộ dựa trên mối tương quan về địa hình dãy Trường Sơn và hệ thống sông suối đổ ra biển.

Khi quy hoạch vùng hoặc vùng liên tỉnh, chúng ta mới có thể có một cái nhìn tổng thể về mối tương quan giữa các khu vực và các hệ thống thủy văn để có thể đề xuất giải pháp phát triển phù hợp.

Thứ hai là xác định và bảo vệ bộ khung thiên nhiên (đây là giải pháp căn cơ). Trong quy hoạch liên vùng, việc đầu tiên và quan trọng nhất là phải xác định và bảo vệ bộ khung thiên nhiên (vùng thiên nhiên cần được bảo vệ), rừng đầu nguồn, vùng trũng chứa nước một cách nghiêm ngặt.

Phải tiến hành nghiên cứu, đánh giá, chia sẻ những vấn đề hiện tại, đặc biệt là dự báo trong tương lai về kịch bản khí hậu và biến đổi khí hậu như mực nước, lượng mưa cực đoan… với các cơ quan lập quy hoạch.

Từ kết quả nghiên cứu và dự báo, phải đưa ra các giải pháp phân vùng phát triển rõ ràng như: vùng được phát triển, vùng hạn chế phát triển, vùng cấm phát triển/buộc di dời (nơi quá nguy hiểm, không thể đối phó với thiên tai cực đoan). Đặc biệt kiểm soát bê tông hóa, phải có quy định nghiêm ngặt về tỷ lệ bề mặt thấm tự nhiên trong các khu đô thị mới và hiện hữu, không được phép lấp vùng trũng, hồ, hay sông.

Thứ ba là siết chặt quản lý và vận hành thủy điện. Tôi cho rằng cần yêu cầu các dự án thủy điện rà soát và tái thẩm định lại dung tích hồ chứa dựa trên kịch bản lượng mưa cực đoan trong 50 - 100 năm tới.

Với việc thủy điện xả lũ, cần có quy chế vận hành liên hồ nghiêm ngặt

TS Nguyễn Hồng Hạnh, Viện trưởng Viện Nghiên cứu Kinh tế Xây dựng và Đô thị

Ngoài ra, cần có quy chế vận hành liên hồ nghiêm ngặt, cụ thể là cần có một cơ chế chỉ huy thống nhất và kỷ luật nghiêm minh trong vận hành liên hồ. Đảm bảo rằng việc xả lũ của các hồ không làm trầm trọng thêm tình hình lũ lụt ở hạ du, ưu tiên bảo vệ tính mạng và tài sản của người dân.

Tôi cho rằng những giải pháp này đòi hỏi sự phối hợp đồng bộ giữa nhiều bộ, ngành, và địa phương. Chúng ta không thể tiếp tục chấp nhận "phát triển nóng", đánh đổi môi trường lấy phát triển kinh tế mà bỏ qua tính bền vững và an toàn. Quy hoạch phải đi trước, tôn trọng, bảo tồn thiên nhiên và đặt mục tiêu giảm thiểu rủi ro thiên tai lên hàng đầu.

- Xin cảm ơn bà về những chia sẻ!

Tuyết Nhung (thực hiện)

Nguồn Một Thế Giới: https://1thegioi.vn/thuy-dien-lam-thay-doi-dong-chay-tu-nhien-bien-ha-du-thanh-tui-hung-nuoc-242154.html