Thương mại hóa tài sản trí tuệ:Cầu nối từ phòng thí nghiệm đến thị trường

Trong kỷ nguyên kinh tế tri thức, khi đổi mới sáng tạo được xem là động lực trung tâm của tăng trưởng, thương mại hóa tài sản trí tuệ trở thành chiếc cầu nối then chốt giữa nghiên cứu và thị trường.

Tuy nhiên, tại Việt Nam, đây lại là khâu yếu nhất trong chuỗi giá trị đổi mới sáng tạo, khiến tiềm năng của hàng nghìn kết quả nghiên cứu vẫn chưa được chuyển hóa thành giá trị kinh tế cụ thể.

Nghiên cứu tại phòng thí nghiệm của Đại học Quốc gia Hà Nội.

Nghiên cứu tại phòng thí nghiệm của Đại học Quốc gia Hà Nội.

Tài sản vẫn “nằm trên giấy”

Theo Tiến sĩ Nguyễn Hữu Cẩn, Quyền Viện trưởng Viện Khoa học sở hữu trí tuệ quốc gia, Việt Nam hiện nằm trong nhóm 50 quốc gia dẫn đầu thế giới về đổi mới sáng tạo, nhưng xếp thứ 112 về thu nhập từ tài sản trí tuệ. Báo cáo Chỉ số đổi mới sáng tạo toàn cầu (GII) 2025 cũng chỉ ra nghịch lý rõ rệt: Đầu ra đổi mới của Việt Nam xếp hạng 37 toàn cầu, nhưng doanh thu từ tài sản trí tuệ lại ở nhóm cuối, phản ánh khoảng trống lớn trong thương mại hóa.

Nhìn từ khối viện, trường, tỷ lệ sáng chế được thương mại hóa thành công chỉ đạt khoảng 3%, trong khi tới 75% sáng chế mới dừng ở mức độ sẵn sàng công nghệ (TRL) 3-5, tức vẫn trong phòng thí nghiệm. Hơn 50% nhà khoa học cho rằng họ không có đủ cơ chế chia sẻ lợi ích khi chuyển giao công nghệ, nên động lực thương mại hóa còn thấp.

Ở khu vực doanh nghiệp, sự mất cân đối trong khai thác tài sản trí tuệ càng rõ nét. Phần lớn doanh nghiệp tập trung khai thác nhãn hiệu và bí mật kinh doanh, trong khi bỏ ngỏ mảng sáng chế, lĩnh vực có khả năng tạo dòng tiền bền vững nhất. Giá trị giao dịch sáng chế trong nước thường thấp hơn 50% so với sáng chế cùng cấp độ công nghệ ở nước ngoài. Việc thiếu niềm tin vào hệ thống định giá và bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ vẫn là rào cản lớn.

Theo Phó Cục trưởng Cục Sở hữu trí tuệ (Bộ Khoa học và Công nghệ) Nguyễn Hoàng Giang, nguyên nhân chính nằm ở “ba điểm nghẽn”: Định giá tài sản trí tuệ; nguồn nhân lực và dữ liệu thị trường; cùng thực thi quyền sở hữu trí tuệ trên môi trường số. Cả ba yếu tố này đang khiến dòng chảy thương mại hóa bị tắc nghẽn ngay từ giai đoạn khởi đầu.

Tiến sĩ Vũ Tuấn Anh (Đại học Quốc gia Hà Nội) cho biết, dù nhà trường đã có hàng trăm bằng sáng chế và hơn 300 đơn đăng ký sở hữu trí tuệ trong giai đoạn 2020-2025, nhưng tỷ lệ chuyển giao còn khiêm tốn. “Nhiều đề tài vẫn thiên về công bố quốc tế, ít chú trọng khả năng ứng dụng, trong khi việc định giá công nghệ và kêu gọi đầu tư còn hạn chế”, ông nói.

Tiến sĩ Phạm Tuấn Hiệp, Giám đốc Đầu tư BK Holdings nhận định, Việt Nam đang ở “ngưỡng cửa của thời đại thị trường công nghệ”, tương tự như giai đoạn bùng nổ thị trường chứng khoán năm 2007. Nhưng để thị trường công nghệ hình thành, cần đồng thời có “thể chế như FIFA và thiết chế như câu lạc bộ” - tức là hệ thống luật chơi minh bạch và mạng lưới trung gian chuyên nghiệp kết nối cung - cầu công nghệ.

Thực tế hiện nay, cả nước có hơn 40 trung tâm chuyển giao công nghệ tại các trường đại học và viện nghiên cứu, nhưng “chưa tổ chức nào giàu” vì thiếu cơ chế tài chính hóa tài sản trí tuệ, thiếu quỹ đầu tư mạo hiểm và chưa có mô hình ươm tạo spin-off hiệu quả.

Gỡ “nút thắt” để thương mại hóa

Thúc đẩy thương mại hóa tài sản trí tuệ không chỉ là yêu cầu kinh tế, mà còn là nhiệm vụ chiến lược nhằm thực hiện các Nghị quyết của Bộ Chính trị về phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và kinh tế tư nhân.

Giải pháp đầu tiên, theo Cục Sở hữu trí tuệ, là hoàn thiện thể chế và hành lang pháp lý cho thị trường tài sản trí tuệ. Luật Khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo năm 2025 cùng chủ trương sửa đổi Luật Sở hữu trí tuệ đang mở đường cho việc chuyển từ tư duy “bảo hộ quyền” sang “khai thác giá trị kinh tế”, coi tài sản trí tuệ là tài sản có thể mua bán, thế chấp, huy động vốn. Nhà nước cần tiếp tục cải cách thủ tục xác lập quyền, đồng thời thử nghiệm các cơ chế môi trường thử nghiệm có kiểm soát - sandbox cho công nghệ mới như trí tuệ nhân tạo, dữ liệu lớn hay blockchain.

Giải pháp thứ hai là xây dựng hệ sinh thái định giá và tài chính hóa tài sản trí tuệ. Đây là điểm mấu chốt để biến tài sản trí tuệ thành “vốn” thực sự. Việt Nam cần ban hành Bộ tiêu chí định giá tài sản trí tuệ, cho phép các ngân hàng, quỹ đầu tư mạo hiểm và doanh nghiệp tin tưởng sử dụng tài sản trí tuệ làm tài sản bảo đảm. Cùng với đó, việc hình thành nền tảng dữ liệu quốc gia về tài sản trí tuệ và phát triển đội ngũ thẩm định giá chuyên nghiệp sẽ tạo nền móng cho thị trường vận hành minh bạch.

Giải pháp thứ ba là tăng cường thực thi quyền tài sản trí tuệ trên môi trường số. Việc xây dựng “Cổng quốc gia về quản lý vi phạm sở hữu trí tuệ trực tuyến” như đề xuất của Cục Sở hữu trí tuệ, sẽ giúp giám sát, xử lý và tố giác vi phạm tự động; hạn chế tình trạng hàng giả, hàng nhái trên các sàn thương mại điện tử.

Giải pháp thứ tư là phát triển tổ chức trung gian và hệ sinh thái khởi nghiệp sáng tạo trong đại học. Các trung tâm chuyển giao tri thức, vườn ươm, quỹ đầu tư nội bộ như VNU Holdings đã chứng minh hiệu quả trong việc kết nối nhà khoa học với doanh nghiệp.

Ngoài ra, cần đưa sở hữu trí tuệ vào chương trình đào tạo chính quy ở đại học và sau đại học. Song song, cần khuyến khích mô hình hợp tác công - tư (PPP) trong định giá và thương mại hóa, nơi Nhà nước hỗ trợ kinh phí ban đầu, doanh nghiệp và các tổ chức tư nhân đảm nhiệm triển khai.

Thương mại hóa tài sản trí tuệ không chỉ là đích đến của khoa học, mà còn là thước đo sức khỏe của nền kinh tế tri thức Việt Nam. Muốn đi nhanh trên con đường này, cần đồng bộ cả “luật chơi” - thể chế, “người chơi” - doanh nghiệp và nhà khoa học, cùng “sân chơi” - thị trường công nghệ.

Khi tài sản trí tuệ thực sự được định giá, giao dịch và sinh lợi, đó sẽ là lúc Việt Nam bước vào kỷ nguyên kinh tế tri thức đúng nghĩa, nơi chất xám trở thành vốn, tri thức trở thành hàng hóa và sáng tạo trở thành động lực tăng trưởng bền vững cho đất nước.

Thu Hằng

Nguồn Hà Nội Mới: https://hanoimoi.vn/thuong-mai-hoa-tai-san-tri-tue-cau-noi-tu-phong-thi-nghiem-den-thi-truong-718789.html