Thung thăng về miền tranh điệp...
Quê hương Bắc Ninh vừa chính thức có thêm di sản văn hóa thứ 8 được UNESCO ghi danh là Nghề làm tranh dân gian Đông Hồ. Không chỉ gây ấn tượng mạnh mẽ với bạn bè trong nước và quốc tế, sự kiện này còn cho thấy Bắc Ninh là vùng đất hiếm hoi được lịch sử, văn hóa và thời gian ưu ái kết tinh trong từng di sản. Có nơi nào đẹp hơn Bắc Ninh - Kinh Bắc! Một miền quê vừa giàu văn hóa, vừa trú phú sản vật với những làng ca hát, làng vẽ tranh...
Tự hào tranh làng Mái là di sản thế giới
"Hỡi cô thắt lưng bao xanh/ Có về làng Mái với anh thì về/ Làng Mái có lịch có lề/ Có ao tắm mát, có nghề làm tranh"... Về miền tranh điệp những ngày sau khi UNESCO chính thức ghi danh Nghề làm tranh dân gian Đông Hồ là Di sản văn hóa phi vật thể cần bảo vệ khẩn cấp của nhân loại, không khí làng nghề rộn ràng, tất bật hơn. Từ Trung tâm bảo tồn tranh cho đến từng nếp nhà, xưởng sản xuất của gia đình các nghệ nhân, khách ra vào tấp nập. Chuyện nghề tranh được mọi người rôm rả nhắc đến với niềm hân hoan, tự hào xen những suy tư, trăn trở...

Du khách tham quan làng nghề và mua sản phẩm tranh Đông Hồ.
Chiều 14/12, vừa từ sân bay Nội Bài về đến nhà, nghệ nhân Nguyễn Hữu Hoa đã tất bật đón khách. Vẫn vẹn nguyên niềm xúc động, ông hào hứng: “Vinh dự đại diện cho nghệ nhân làng nghề trực tiếp tham dự Phiên họp lần thứ 20 của Ủy ban Liên Chính phủ Công ước 2003 - UNESCO và được chứng kiến khoảnh khắc ngài Chủ tịch kỳ họp gõ búa ghi danh nghề tranh của làng mình, tôi vô cùng xúc động. Đó là giây phút lịch sử đối với tôi, với làng nghề và cả tỉnh Bắc Ninh. Sau bao nỗ lực của các cấp, ngành và cộng đồng, nghề tranh quê hương đã được cộng đồng quốc tế ghi nhận. Càng vinh dự bao nhiêu, chúng tôi càng ý thức trách nhiệm bấy nhiêu và tự hứa sẽ nỗ lực, cố gắng nhiều hơn, góp phần sớm đưa di sản thoát khỏi tình trạng cần bảo vệ khẩn cấp”.
"Cha ông ta đã lao động nghệ thuật gian khổ, thế hệ này nối tiếp thế hệ khác kỳ công mài giũa viên ngọc quý và trao lại cho chúng ta ngày nay. Có trong tay một hương hỏa vô giá, chúng ta phải sử dụng sao cho xứng đáng niềm tin tưởng của tiền nhân, làm cho viên ngọc nghệ thuật ấy ngày càng tăng thêm độ trong, kết đọng trí tuệ lịch sử, kết đọng trí tuệ thời đại" - Nhà nghiên cứu về tranh Đông Hồ Chu Quang Trứ.
Nghe tin nghệ nhân vừa từ Ấn Độ về, ông Nguyễn Đăng Quốc, Tổ trưởng Tổ dân phố Đông Khê (phường Thuận Thành) cũng vội đến hỏi chuyện. Ông Quốc kể: Suốt những ngày qua, cán bộ, đảng viên và bà con nhân dân địa phương rất phấn khởi. Mọi người lan truyền, chia sẻ, cập nhật về sự kiện UNESCO chính thức ghi danh nghề làm tranh. Hy vọng tới đây, nghề tranh Đông Hồ tiếp tục được các cấp ủy, chính quyền quan tâm, bảo vệ bằng nhiều giải pháp đồng bộ, thiết thực, gắn với phát triển du lịch làng nghề.
Trong khi nghệ nhân Nguyễn Hữu Hoa say sưa tiếp chuyện khách bên bàn trà thì vợ ông là Nghệ nhân Ưu tú Nguyễn Thị Oanh vẫn miệt mài “tô vẽ tờ tranh bốn mùa”. Giữa xưởng tranh nhỏ của gia đình, dáng vẻ an nhiên, thành thục của người phụ nữ có gần nửa thế kỷ làm nghệ thuật trông thật cuốn hút. Vừa vẽ tranh, bà Oanh vừa từ tốn: "Hạnh phúc luôn đi cùng trách nhiệm. Tôi rất hứng khởi song cũng thấy mình phải cố gắng nhiều hơn, sáng tạo thêm các mẫu tranh mới và nâng cao chất lượng sản phẩm truyền thống".
Nằm trong vùng văn hiến Kinh Bắc, bên dòng Đuống "nghiêng nghiêng", các thế hệ "nghệ sĩ nông dân" tài hoa làng Đông Hồ (tên nôm làng Mái, nay là tổ dân phố Đông Khê, phường Thuận Thành) đã sáng tạo, gìn giữ một dòng tranh vô cùng độc đáo và ấn tượng. Nguyên vật liệu hoàn toàn từ thiên nhiên với vẻ đẹp lấp lánh của sò điệp, rực rỡ nổi bật của sắc vàng hoa hòe, màu đỏ gạch son, màu xanh lá chàm quyện trong nét thâm trầm giản dị của tàn tro rơm rạ... Chính "màu dân tộc" và "giấy điệp" đã làm nên thần thái của dòng tranh làng Mái, tạo nên "chất Đông Hồ" đặc sắc, độc nhất vô nhị trong kho tàng di sản mỹ thuật Việt Nam và thế giới.
Ẩn trong mỗi bức tranh Đông Hồ là tư tưởng, văn hóa, kinh nghiệm, triết lý sống của người Việt xưa và nay. Đó cũng là yếu tố quan trọng nhất để hiểu tại sao tranh dân gian Đông Hồ không chỉ có sức sống qua hàng trăm năm mà còn có sức hút đặc biệt đối với du khách quốc tế. Anh Zheng Zhou, 28 tuổi là một nghiên cứu sinh người Trung Quốc, chuyên ngành lịch sử hội họa Đông Nam Á đã tìm về làng Mái sưu tầm tư liệu. Ngắm những tờ tranh điệp lấp lánh, chàng trai trẻ không giấu được sự say mê, Zheng Zhou thổ lộ: "Lịch sử tranh khắc gỗ Việt Nam hé lộ nhiều điều về đời sống chính trị và bản sắc văn hóa. Tôi sẽ thu xếp thời gian quay lại đây để tìm hiểu sâu hơn về kỹ thuật tạo màu và giấy dó".
Tâm huyết giữ nghề
Cho đến nay, nguồn gốc của nghề tranh Đông Hồ vẫn là ẩn số. Giới nghiên cứu cũng chưa tìm ra bằng chứng xác nhận tổ nghề là ai, có từ khi nào, chỉ biết nhờ nghề tranh đầy tài hoa và nổi tiếng mà 2 lần thợ giỏi của làng được vua vời vào kinh đô phục vụ triều đình. Thời kỳ rực rỡ nhất của nghề tranh Đông Hồ là khoảng cuối thế kỷ XIX. Khi đó, cả làng có 17 dòng họ với hàng trăm gia đình sản xuất tranh. Làng thành nơi sản xuất, trao đổi hàng hóa tấp nập và gần như độc quyền cung cấp tranh Tết cho vùng đồng bằng Bắc bộ. Nhưng kể từ năm 1945 trở về sau, thị trường thu hẹp, người làng không còn sống được bằng nghề tranh đã chuyển dần sang làm hàng mã.

Nghệ nhân trẻ Nguyễn Hữu Đạo hướng dẫn các em nhỏ in tranh Đông Hồ.
Hiện nay, tổ dân phố Đông Khê có 517 hộ dân với gần 2.400 nhân khẩu, trong đó 90% hộ làm nghề hàng mã, chỉ còn 3 gia đình giữ nghề làm tranh là: Gia đình Nghệ nhân Ưu tú Nguyễn Đăng Chế; gia đình Nghệ nhân Ưu tú Nguyễn Thị Oanh và gia đình Nghệ nhân Ưu tú Nguyễn Hữu Quả với khoảng 20 - 30 người thực hành nghề.
Được ví như "linh hồn" của làng nghề, ở tuổi 90, Nghệ nhân Ưu tú Nguyễn Đăng Chế vẫn đều đặn thường trực tại Nhà trưng bày tranh của gia đình để giới thiệu và kể chuyện nghề. Nghệ nhân xúc động: "Cả cuộc đời gắn bó với nghề tranh và đến giờ tôi vẫn say sưa với nghề. Gia đình tôi có 3 thế hệ gồm các con trai, gái, dâu, rể cùng cháu nội, ngoại đều tham gia sản xuất tranh và sống được bằng nghề".
Nhớ lại những năm tháng khi nghề tranh bị mai một, người làng bỏ nghề, những ván khắc cổ bị vứt chỏng chơ, cụ Chế xót lắm. Năm 1995, cụ đã đến từng nhà trong làng để sưu tầm và mua lại các bản khắc gỗ cổ. Trong số hàng nghìn ván khắc mà gia đình hiện lưu giữ, có những bộ ván đặc biệt quý với niên đại hơn 200 năm, tiêu biểu như bộ mộc bản tranh thờ "Ngũ sự" có tới 26 tấm ván khắc vô cùng độc đáo. Đặc biệt, Nghệ nhân còn được một học giả người Pháp tặng hơn 100 mẫu tranh Đông Hồ sưu tầm được từ những năm 1980 của thế kỷ trước. Trong đó, có 30 mẫu tranh đã hoàn thành khắc ván. "Nếu còn sức khỏe thì chỉ khoảng 2-3 năm nữa là tôi sẽ làm xong bản khắc của 40 mẫu tranh nữa. Với những người làm nghề, ván khắc không chỉ là tư liệu sản xuất mà còn là vật gia bảo vô giá" - cụ Chế tâm niệm.
Sở dĩ Nghề làm tranh dân gian Đông Hồ còn giữ gìn được đến hôm nay là nhờ cộng đồng, các nghệ nhân tâm huyết giữ nghề, nâng niu ván khắc. Là nghệ nhân trẻ nhất làng, anh Nguyễn Hữu Đạo, sinh năm 1990, con trai của Nghệ nhân Ưu tú Nguyễn Hữu Quả dù tốt nghiệp cử nhân kinh tế, từng có công việc ổn định nhưng không cảm thấy hứng thú mà luôn nhớ khuôn in mộc bản, nhớ ve nhớ đục... Nghệ nhân trẻ bộc bạch: “Tôi tiếp xúc với nghề làm tranh từ nhỏ. Lúc bé thường ngồi chơi, quan sát ông nội và bố vẽ tranh, đục ván khắc, lớn hơn thì được ông và bố dạy nghề. Năm 14 tuổi tôi tự mình hoàn thiện một bức tranh in, 20 tuổi tôi biết làm tranh khắc gỗ...”.
Sinh ra, lớn lên cùng nghề tranh, người dân Đông Hồ ăn ngủ trong mùi thơm của màu, của giấy dó, trong âm thanh của tiếng giã điệp... Tranh điệp đã ngấm vào máu thịt người làng Mái, trở thành một phần quan trọng trong ký ức, tâm hồn. Về làng Mái được nghe nghệ nhân gạo cội kể chuyện giữ nghề, ngắm những người trẻ cặm cụi tỉa từng nét chạm khắc trên gỗ, chúng tôi hiểu rằng sức sống di sản không chỉ là những dòng chữ in trên văn bản được đóng khung để treo tường, mà còn là sự kế thừa, tiếp nối của những đôi tay đang mải miết làm nghề.
UNESCO đã ghi danh, nhưng di sản có sức sống như thế nào trong đời sống hôm nay và mai sau lại phụ thuộc vào sự bền bỉ, kiên nhẫn cùng tình yêu nghề của cộng đồng người dân địa phương... Rời làng Mái khi mặt trời tắt nắng, chúng tôi ấn tượng mãi hình ảnh những em nhỏ dù chưa biết chữ, tay lấm lem màu mực nhưng vẫn hồn nhiên chăm chú tô vẽ những bức tranh gà, tranh lợn... Có lẽ đó chính là hình ảnh đẹp nhất trong tương lai của nghề tranh dân gian làng Mái - Đông Hồ.
































