Thúc đẩy ứng dụng công nghệ sinh học trong sản xuất nông nghiệp

Là trụ cột của cách mạng công nghiệp lần thứ tư, công nghệ sinh học giữ vai trò nền tảng trong công nghiệp hóa, hiện đại hóa, giúp nâng cao năng suất và chất lượng sản phẩm; đồng thời là giải pháp đột phá để phát triển nền nông nghiệp hiện đại, bền vững.

Ứng dụng công nghệ sinh học trong trồng, chăm sóc hoa lan tại trang trại Mê Linh F Farm. (Ảnh: ĐĂNG ANH)

Ứng dụng công nghệ sinh học trong trồng, chăm sóc hoa lan tại trang trại Mê Linh F Farm. (Ảnh: ĐĂNG ANH)

Nhiều mô hình hiệu quả

Sinh ra và lớn lên ở vùng quê chiêm trũng, ông Bùi Đức Thịnh, thôn Hoàng Quyển, xã Gia Viễn, tỉnh Ninh Bình ấp ủ ước mơ tìm ra mô hình phát triển kinh tế phù hợp để có thể làm giàu trên chính mảnh đất quê hương. Sau khi tìm hiểu, nhận thấy các mô hình nuôi cá theo quy trình VietGAP có nhiều ưu điểm so với cách nuôi truyền thống như cá ít bị bệnh, chi phí thuốc kháng sinh giảm, nhanh lớn, có màu sắc sáng bóng, mình dày, thịt thơm ngon…, ông Thịnh quyết định chuyển hẳn sang nuôi theo tiêu chuẩn VietGAP.

Cùng với sự hỗ trợ về kỹ thuật của cán bộ khuyến nông và vốn vay ngân hàng, ông Thịnh quy hoạch lại diện tích ao nuôi, sắm sửa thêm thiết bị hiện đại, dùng các chế phẩm vi sinh xử lý môi trường nuôi, làm sạch nguồn nước và chuyển hóa các chất thải, thức ăn thừa thành phù du có lợi cho cá. Không chỉ mạnh dạn áp dụng kỹ thuật nuôi theo tiêu chuẩn VietGAP, ông còn là người đi đầu trong việc ứng dụng công nghệ thông minh. Từ đó, mỗi năm ông xuất bán 100 tấn cá, đạt doanh thu 4,5 tỷ đồng, trừ hết chi phí đầu tư còn thu lãi khoảng 1 tỷ đồng.

Tại tỉnh Quảng Trị, để giúp người nuôi trồng thủy sản nói chung và nuôi tôm nói riêng tăng năng suất và sản lượng, nâng cao hiệu quả kinh tế trên đơn vị diện tích ao nuôi, đồng thời cung cấp sản phẩm tôm sạch và an toàn cho thị trường, Trung tâm Nghiên cứu, Chuyển giao công nghệ và Đổi mới sáng tạo tỉnh đã ứng dụng tiến bộ khoa học-kỹ thuật nuôi tôm bằng chế phẩm vi sinh Nitro-QTMIC (xử lý môi trường ao nuôi) và Perfect-QTMIC (bổ sung thức ăn để cải thiện hệ tiêu hóa và hệ miễn dịch tôm nuôi) đối với các hộ trên địa bàn các xã Cửa Tùng, Nam Cửa Việt, Mỹ Thủy và một số vùng nuôi tôm thẻ chân trắng chuyên canh trên địa bàn.

Trong mô hình này, chế phẩm vi sinh được sử dụng từ bước chuẩn bị ao cho đến kiểm soát môi trường nước và dịch bệnh trong suốt quá trình nuôi; cho hiệu quả rõ rệt, mang lại lợi ích cho người nuôi tôm do giúp tăng cường hệ vi sinh vật có lợi trong môi trường nuôi, bảo đảm hiệu quả việc sử dụng thức ăn và giá trị dinh dưỡng. Đối với việc sử dụng chế phẩm vi sinh Nitro-QTMIC và Perfect-QTMIC, áp dụng quy trình nuôi tôm 2 giai đoạn tại xã Cửa Tùng cho thấy, sau 4 tháng thả nuôi tôm đạt tỷ lệ sống trên 75%, kích cỡ bình quân đạt 50 con/kg, sản lượng thu được trên 25 tấn/ha, ước tính lợi nhuận gần 1 tỷ đồng/ha.

Theo Thạc sĩ Lê Thanh Tùng, Trưởng ban Phổ biến kiến thức Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam, ứng dụng các mô hình công nghệ sinh học không chỉ góp phần nâng cao hiệu quả sản xuất nông nghiệp, bảo vệ môi trường mà còn giúp địa phương thích ứng linh hoạt trước những thách thức, hướng tới mục tiêu phát triển bền vững. Việc quan tâm đến công tác nghiên cứu, chọn tạo giống có năng suất kết hợp triển khai đồng bộ kỹ thuật đã góp phần quan trọng cho tăng trưởng của ngành nông nghiệp.

Ứng dụng các mô hình công nghệ sinh học không chỉ góp phần nâng cao hiệu quả sản xuất nông nghiệp, bảo vệ môi trường mà còn giúp địa phương thích ứng linh hoạt trước những thách thức, hướng tới mục tiêu phát triển bền vững. Việc quan tâm đến công tác nghiên cứu, chọn tạo giống có năng suất kết hợp triển khai đồng bộ kỹ thuật đã góp phần quan trọng cho tăng trưởng của ngành nông nghiệp.

Thạc sĩ Lê Thanh Tùng, Trưởng ban Phổ biến kiến thức Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam

Điển hình, từ nghiên cứu khoa học-công nghệ đã tạo được các giống lúa chất lượng cao: Bắc thơm số 7, TBR225, TBR39-1, Đài thơm số 8, ST24, ST25… Hiện có nhiều nghiên cứu đang được áp dụng vào sản xuất nông nghiệp ở Việt Nam, như các công nghệ tạo gen, tạo giống cây trồng biến đổi gen, vi nhân giống, công nghệ tế bào... Năm 2024, ngành nông nghiệp Việt Nam đạt mức tăng trưởng đáng khích lệ khi sản xuất trồng trọt tăng 2,2% và giá trị xuất khẩu nông sản đạt kỷ lục 62,5 tỷ USD, tăng 18,7% so với năm trước. Trong đó, nhiều mặt hàng xuất khẩu chủ lực như gạo, cà-phê, rau và cao su đã vượt mốc 2 tỷ USD.

Cần thêm cơ chế, chính sách

Có thể thấy, nông nghiệp nước nhà đã thay đổi đáng kể từ khi ứng dụng những thành tựu công nghệ sinh học, đó là năng suất sản xuất nông nghiệp được nâng cao, tạo ra nhiều sản phẩm có giá trị, tiết kiệm chi phí cho người nông dân... Tuy nhiên, theo đánh giá chung, việc phát triển và ứng dụng công nghệ sinh học trong nông nghiệp nước ta vẫn còn chậm, chưa tương xứng với tiềm năng cũng như yêu cầu phát triển kinh tế-xã hội.

Trước thực trạng này, Đảng và Nhà nước đã có nhiều văn bản quan tâm chỉ đạo. Gần đây nhất, Bộ Chính trị ban hành Nghị quyết số 36-NQ/TW, ngày 30/1/2023 về phát triển và ứng dụng công nghệ sinh học phục vụ phát triển bền vững đất nước trong tình hình mới, trong đó nêu rõ: “Chú trọng nghiên cứu và ứng dụng công nghệ sinh học trong nông nghiệp, tạo ra các giống cây trồng, vật nuôi thích nghi với biến đổi khí hậu, chống chịu sâu bệnh, có năng suất, chất lượng và hiệu quả kinh tế cao, góp phần xây dựng nền nông nghiệp thông minh, an toàn, hiệu quả…”.

Để hiện thực hóa mục tiêu đề ra tại nghị quyết này, theo Tiến sĩ Cao Đức Phát, Chủ tịch Hội đồng quản trị Viện Nghiên cứu Lúa quốc tế, chúng ta cần triển khai đồng bộ nhiều giải pháp. Trước hết, cần đẩy mạnh công tác tuyên truyền, nâng cao nhận thức của các nhà quản lý, nhà sản xuất về phát triển và ứng dụng công nghệ sinh học, coi đó là “chìa khóa” mở cánh cửa phát triển nền nông nghiệp bền vững.

Từ nhận thức về yêu cầu, nhiệm vụ mới, các ban, bộ, ngành cần phối hợp xây dựng cơ chế, chính sách pháp luật về phát triển và ứng dụng công nghệ sinh học. Trong đó tiếp tục rà soát, bổ sung, hoàn thiện hệ thống văn bản pháp luật, cơ chế, chính sách liên quan; các quy trình, tiêu chuẩn, quy chuẩn chuyên ngành đặc thù của công nghệ sinh học. Đồng thời, cần xây dựng cơ chế quản lý minh bạch, linh hoạt để đánh giá, cấp phép và sử dụng các giống cây trồng chỉnh sửa gen phù hợp với thông lệ quốc tế.

MINH TÙNG

Nguồn Nhân Dân: https://nhandan.vn/thuc-day-ung-dung-cong-nghe-sinh-hoc-trong-san-xuat-nong-nghiep-post909615.html