Thúc đẩy hình thành chuỗi giá trị nông sản ứng dụng công nghệ cao, truy xuất minh bạch

Nhằm phát triển cơ giới hóa đồng bộ, thúc đẩy chuyển đổi số trong nông nghiệp, Bộ Nông nghiệp và Môi trường xác định 5 định hướng: hoàn thiện thể chế, chính sách khuyến khích nghiên cứu và chuyển giao công nghệ; phát triển trung tâm đổi mới sáng tạo nông nghiệp vùng; mở rộng hợp tác quốc tế trong chế biến sâu, logistics, cơ giới hóa thông minh; thúc đẩy xã hội hóa nghiên cứu; xây dựng mô hình chuỗi giá trị nông sản ứng dụng công nghệ cao, truy xuất minh bạch.

Hội nghị Khoa học công nghệ bảo quản, chế biến nông lâm thủy sản và cơ giới hóa nông nghiệp toàn quốc năm 2025 có chủ đề: "Nâng cao chất lượng, hiệu quả, giảm thất thoát và lãng phí lương thực, thực phẩm". (Ảnh: Tạp chí Nông nghiệp và Môi trường)

Hội nghị Khoa học công nghệ bảo quản, chế biến nông lâm thủy sản và cơ giới hóa nông nghiệp toàn quốc năm 2025 có chủ đề: "Nâng cao chất lượng, hiệu quả, giảm thất thoát và lãng phí lương thực, thực phẩm". (Ảnh: Tạp chí Nông nghiệp và Môi trường)

Ngày 12/9/2025, tại Hà Nội, Viện Cơ điện nông nghiệp và Công nghệ sau thu hoạch (VIAEP) phối hợp cùng Hội Khoa học và Công nghệ Lương thực thực phẩm Việt Nam (VAFoST) và Hội Cơ khí nông nghiệp Việt Nam (VSAGE) tổ chức Hội nghị Khoa học công nghệ bảo quản, chế biến nông lâm thủy sản và cơ giới hóa nông nghiệp toàn quốc năm 2025 với chủ đề: "Nâng cao chất lượng, hiệu quả, giảm thất thoát và lãng phí lương thực, thực phẩm".

Hội nghị là diễn đàn khoa học có ý nghĩa thiết thực, tạo không gian để các nhà khoa học, nhà quản lý, doanh nghiệp và các tổ chức quốc tế cùng nhau chia sẻ các kết quả nghiên cứu khoa học, đánh giá thực trạng và đề xuất các giải pháp đột phá trong chế biến, bảo quản, cơ giới hóa; xây dựng cơ chế chính sách thuận lợi cho đổi mới sáng tạo; thúc đẩy hợp tác công - tư, liên kết 4 nhà (Nhà nước - Nhà khoa học - Nhà doanh nghiệp - Nhà nông).

5 định hướng thúc đẩy chuyển đổi số trong nông nghiệp

Phát biểu tại hội nghị, Thứ trưởng Bộ Nông nghiệp và Môi trường Phùng Đức Tiến cho biết, một thập kỷ qua, nông nghiệp Việt Nam duy trì tốc độ tăng trưởng ổn định 2,5 - 3,5%/năm. Năm 2024, giá trị xuất khẩu nông, lâm, thủy sản đạt kỷ lục 62,5 tỷ USD, tăng gần 19% so với năm 2023, đưa Việt Nam vào nhóm 10 quốc gia xuất khẩu nông sản hàng đầu thế giới.

Thứ trưởng Bộ Nông nghiệp và Môi trường Phùng Đức Tiến cho biết, giá trị xuất khẩu nông, lâm, thủy sản đạt 62,5 tỷ USD trong năm 2024, tăng gần 19% so với năm 2023. (Ảnh: Tạp chí Nông nghiệp và Môi trường)

Thứ trưởng Bộ Nông nghiệp và Môi trường Phùng Đức Tiến cho biết, giá trị xuất khẩu nông, lâm, thủy sản đạt 62,5 tỷ USD trong năm 2024, tăng gần 19% so với năm 2023. (Ảnh: Tạp chí Nông nghiệp và Môi trường)

Cơ cấu ngành đã có chuyển dịch tích cực, tỷ trọng chế biến tăng, nông nghiệp xanh, tuần hoàn và chuyển đổi số ngày càng rõ nét. Công nghệ bảo quản, chế biến đã giúp giảm tổn thất sau thu hoạch 5 - 10%, nâng cao chất lượng sản phẩm và đáp ứng tiêu chuẩn quốc tế. Cơ giới hóa nông nghiệp tiến mạnh, tỷ lệ cơ giới hóa khâu làm đất đạt trên 95%, nhiều mô hình ứng dụng drone, IoT, trí tuệ nhân tạo, robot… đã được triển khai, góp phần tăng năng suất, giảm chi phí.

Theo Thứ trưởng Bộ Nông nghiệp và Môi trường, việc ứng dụng công nghệ cao còn hạn chế, tỷ lệ thất thoát ở rau quả, thủy sản vẫn cao; cơ giới hóa thiếu đồng bộ; doanh nghiệp chế biến đa phần quy mô nhỏ, thiếu liên kết và sức cạnh tranh.

Trên cơ sở đó, để phát triển cơ giới hóa đồng bộ, thúc đẩy chuyển đổi số và khuyến khích doanh nghiệp đầu tư chế biến sâu, Bộ Nông nghiệp và Môi trường xác định 5 định hướng: (1) Hoàn thiện thể chế, chính sách khuyến khích nghiên cứu và chuyển giao công nghệ; (2) Phát triển trung tâm đổi mới sáng tạo nông nghiệp vùng; (3) Mở rộng hợp tác quốc tế, đặc biệt trong chế biến sâu, logistics, cơ giới hóa thông minh; (4) Thúc đẩy xã hội hóa nghiên cứu; (5) Xây dựng mô hình chuỗi giá trị nông sản ứng dụng công nghệ cao, truy xuất minh bạch.

Theo PGS. TS. Phạm Anh Tuấn, Viện trưởng Viện Cơ điện nông nghiệp và Công nghệ sau thu hoạch, mặc dù đã có những bước tiến đáng kể, công nghệ bảo quản, chế biến và cơ giới hóa nông nghiệp tại Việt Nam vẫn đối mặt nhiều hạn chế. Tỷ lệ thất thoát sau thu hoạch vẫn còn cao, đặc biệt đối với rau củ quả. Nguyên nhân chủ yếu đến từ việc áp dụng công nghệ còn rời rạc, thiếu đồng bộ và không phù hợp với quy mô sản xuất nhỏ lẻ, manh mún.

Để giải quyết vấn đề này, PGS. TS. Phạm Anh Tuấn nhấn mạnh cần đẩy mạnh nghiên cứu ứng dụng công nghệ đồng bộ từ khâu thu hoạch đến chế biến. Cần tập trung vào việc phát triển các loại máy móc, thiết bị có công suất phù hợp với điều kiện đồng ruộng và quy mô sản xuất tại Việt Nam, đặc biệt với các công đoạn tự động hóa trong sơ chế và bảo quản.

"Các máy móc hiện tại thường có công suất nhỏ, không thể đáp ứng nhu cầu sản xuất lớn, do đó dẫn đến tình trạng thiếu lao động thời vụ và hiệu suất thấp. Chúng ta cần phát triển các giải pháp cơ giới hóa tích hợp, ví dụ như hệ thống máy trồng và thu hoạch hành, tỏi đã được nghiên cứu tại Viện để giải phóng sức lao động, giảm chi phí và nâng cao công suất hoạt động", PGS. TS. Phạm Anh Tuấn chia sẻ.

PGS. TS. Phạm Anh Tuấn, Viện trưởng Viện Cơ điện nông nghiệp và Công nghệ sau thu hoạch nhấn mạnh cần đẩy mạnh nghiên cứu ứng dụng công nghệ đồng bộ từ khâu thu hoạch đến chế biến để giải quyết các vấn đề về công nghệ bảo quản, chế biến và cơ giới hóa nông nghiệp. (Ảnh: Tạp chí Nông nghiệp và Môi trường)

PGS. TS. Phạm Anh Tuấn, Viện trưởng Viện Cơ điện nông nghiệp và Công nghệ sau thu hoạch nhấn mạnh cần đẩy mạnh nghiên cứu ứng dụng công nghệ đồng bộ từ khâu thu hoạch đến chế biến để giải quyết các vấn đề về công nghệ bảo quản, chế biến và cơ giới hóa nông nghiệp. (Ảnh: Tạp chí Nông nghiệp và Môi trường)

Bên cạnh đó, việc áp dụng các hệ thống quản lý chất lượng tiên tiến như HACCP hay ISO 22000 được xem là yếu tố sống còn, không chỉ giúp bảo đảm an toàn thực phẩm mà còn đáp ứng các tiêu chuẩn khắt khe của thị trường xuất khẩu.

Để hiện thực hóa mục tiêu này, PGS. TS. Phạm Anh Tuấn cho rằng phải triển khai đồng bộ nhiều giải pháp như đầu tư nghiên cứu và chuyển giao công nghệ, xây dựng chuỗi giá trị khép kín, gắn kết chặt chẽ từ khâu sản xuất, thu hoạch, bảo quản, chế biến đến tiêu thụ nhằm tối ưu hóa hiệu quả và giảm thiểu thất thoát.

Đồng thời, việc nâng cao năng lực cho nông dân cũng hết sức quan trọng thông qua các chương trình đào tạo, hướng dẫn sử dụng máy móc hiện đại và áp dụng quy trình sản xuất an toàn, bền vững. “Sự kết hợp hài hòa giữa công nghệ, quản lý và nguồn nhân lực sẽ tạo nền tảng vững chắc để nâng cao chất lượng, giảm lãng phí và tăng khả năng cạnh tranh cho nông sản Việt Nam”, PGS. TS. Phạm Anh Tuấn cho biết.

Tạo cơ sở triển khai khoa học - công nghệ gắn với hành động cụ thể

PGS. TS. Nguyễn Anh Phong, Phó Viện trưởng Viện Chiến lược và Chính sách Nông nghiệp và Môi trường (Bộ Nông nghiệp và Môi trường) nhấn mạnh, kinh tế tuần hoàn mang lại các lợi ích đa chiều như giảm chất thải, tiết kiệm tài nguyên (môi trường); cắt giảm chi phí đầu vào, tăng giá trị đầu ra (kinh tế); tạo thêm việc làm, nâng cao đời sống (xã hội).

Những năm vừa qua, Nhà nước đã ban hành nhiều nghị quyết, quyết định và chương trình hành động, hình thành khung chính sách khá đầy đủ để thúc đẩy nông nghiệp tuần hoàn. Thực tế, nhiều mô hình đã được áp dụng từ quy mô doanh nghiệp, hợp tác xã đến nông hộ, bước đầu hình thành hệ sinh thái tuần hoàn.

PGS.TS. Nguyễn Anh Phong, Phó Viện trưởng Viện Chiến lược, Chính sách nông nghiệp và môi trường chia sẻ về tiềm năng phát triển nông nghiệp tuần hoàn của Việt Nam. (Ảnh: Tạp chí Nông nghiệp và Môi trường)

PGS.TS. Nguyễn Anh Phong, Phó Viện trưởng Viện Chiến lược, Chính sách nông nghiệp và môi trường chia sẻ về tiềm năng phát triển nông nghiệp tuần hoàn của Việt Nam. (Ảnh: Tạp chí Nông nghiệp và Môi trường)

Tuy vậy, một số hạn chế còn tồn tại có thể kể tới như nhận thức của doanh nghiệp và người tiêu dùng chưa đầy đủ; chính sách hỗ trợ còn phân tán, chưa có chương trình riêng; tỷ lệ tái sử dụng phụ phẩm thấp, cụ thể trồng trọt mới đạt 52%, lâm nghiệp đạt khoảng 50%. Đặc biệt, mô hình tuần hoàn hiện chủ yếu nằm ở doanh nghiệp lớn, chưa tạo thành chuỗi liên kết giá trị, trong khi nghiên cứu, chuyển giao và đầu tư khoa học - công nghệ còn hạn chế.

Ở góc độ thị trường, yêu cầu về sản phẩm xanh ngày càng gia tăng tại Liên minh châu Âu (EU), Nhật Bản, Hàn Quốc, Mỹ... đã tạo động lực để doanh nghiệp Việt Nam đổi mới theo hướng tuần hoàn.

PGS. TS. Nguyễn Anh Phong cho biết Bộ Nông nghiệp và Môi trường đã ban hành bốn chương trình hành động cho trồng trọt, chăn nuôi, thủy sản và lâm nghiệp, tạo cơ sở triển khai khoa học - công nghệ gắn với hành động cụ thể. Cùng với đó, cần xây dựng bộ tiêu chí sản xuất tuần hoàn, cơ chế trách nhiệm mở rộng của nhà sản xuất (EPR), phát triển tín dụng xanh và ưu tiên doanh nghiệp đạt chuẩn xanh trong tiếp cận vốn, xúc tiến thương mại, xây dựng thương hiệu.

Yêu cầu về sản phẩm xanh ngày càng gia tăng tại Liên minh châu Âu (EU), Nhật Bản, Hàn Quốc, Mỹ... đã tạo động lực để doanh nghiệp Việt Nam đổi mới theo hướng tuần hoàn. (Ảnh: Tạp chí Nông nghiệp và Môi trường)

Yêu cầu về sản phẩm xanh ngày càng gia tăng tại Liên minh châu Âu (EU), Nhật Bản, Hàn Quốc, Mỹ... đã tạo động lực để doanh nghiệp Việt Nam đổi mới theo hướng tuần hoàn. (Ảnh: Tạp chí Nông nghiệp và Môi trường)

Ngoài ra, các mô hình liên kết hợp tác xã với doanh nghiệp cần được ưu tiên để hình thành hệ sinh thái tuần hoàn gắn với vùng sản xuất tập trung và chế biến. Một nhiệm vụ cấp thiết khác là xây dựng cơ sở dữ liệu quốc gia về kinh tế tuần hoàn, tạo nền tảng thông tin minh bạch cho doanh nghiệp, hợp tác xã và người dân. Đồng thời, cần huy động nguồn lực ngân sách, ODA và hỗ trợ quốc tế cho nghiên cứu, chuyển giao công nghệ bảo quản, chế biến tiên tiến, qua đó nâng cao giá trị và sức cạnh tranh của nông sản Việt Nam.

Nghiên cứu và triển khai một số công nghệ hiện đại

Thảo luận về xu hướng công nghệ xanh và thực phẩm tương lai hướng đến phát triển bền vững, GS. TS. Lê Văn Tán, Tổng Biên tập Tạp chí Khoa học và Công nghệ - Trường Đại học Công nghiệp TP. Hồ Chí Minh chỉ ra ba xu hướng lớn: phát triển kinh tế tuần hoàn và hệ sinh thái thông minh; ứng dụng công nghệ cao trong chế biến nông sản (enzyme, bảo quản sinh học, nông nghiệp chính xác, nông nghiệp số); kết nối công nghệ liên ngành nhằm nâng cao năng suất, chất lượng và giá trị.

Theo GS. TS. Lê Văn Tán, Tổng Biên tập Tạp chí Khoa học và Công nghệ - Trường Đại học Công nghiệp TP. Hồ Chí Minh, Việt Nam cần đặc biệt quan tâm và đầu tư để từng bước thương mại hóa các công nghệ mới để giúp ngành nông nghiệp nâng cao năng lực cạnh tranh. (Ảnh: Tạp chí Nông nghiệp và Môi trường)

Theo GS. TS. Lê Văn Tán, Tổng Biên tập Tạp chí Khoa học và Công nghệ - Trường Đại học Công nghiệp TP. Hồ Chí Minh, Việt Nam cần đặc biệt quan tâm và đầu tư để từng bước thương mại hóa các công nghệ mới để giúp ngành nông nghiệp nâng cao năng lực cạnh tranh. (Ảnh: Tạp chí Nông nghiệp và Môi trường)

Cũng theo GS. TS. Lê Văn Tán, phát triển công nghệ cần dựa trên ba nguyên tắc: công nghệ được ứng dụng rộng rãi, mang tính thực tiễn; bảo đảm chất lượng, an toàn và lợi ích cho người tiêu dùng; giảm phát thải, bảo vệ môi trường, hướng tới phát triển bền vững. Đặc biệt, cần tạo sự cân bằng giữa công nghệ xanh và lợi ích kinh tế.

"Trong thời gian tới, Việt Nam cần đặc biệt quan tâm và đầu tư để từng bước thương mại hóa các công nghệ như siêu âm cường độ cao, plasma lạnh, xử lý áp suất cao (HP), điện trường xung (PDE) nhằm kéo dài thời hạn bảo quản, duy trì giá trị dinh dưỡng và chất lượng sản phẩm, nhưng thách thức lớn là chi phí thiết bị và khả năng triển khai ở quy mô sản xuất. Đây sẽ là yếu tố quyết định giúp ngành nông nghiệp nâng cao năng lực cạnh tranh, đáp ứng tiêu chuẩn xanh toàn cầu", GS. TS. Lê Văn Tán đưa ra khuyến nghị.

Tiến Thành

Nguồn Tạp chí Công thương: https://tapchicongthuong.vn/thuc-day-hinh-thanh-chuoi-gia-tri-nong-san-ung-dung-cong-nghe-cao--truy-xuat-minh-bach-225738.htm
Zalo