Thúc đẩy chuyển đổi nông nghiệp sinh thái thích ứng với biến đổi khí hậu

Từ những cánh đồng nước nổi ở miền Tây đến rẫy cà phê Tây Nguyên và những triền đồi Tây Bắc phủ xanh cây ăn quả, người nông dân Việt Nam đang học cách canh tác nông nghiệp thuận với tự nhiên. Nông nghiệp sinh thái vì thế không chỉ là giải pháp ứng phó với biến đổi khí hậu, mà còn là cách làm mới tăng cường đa dạng sinh học và cải thiện sinh kế của người dân.

Mô hình nuôi cá tra sinh thái tại tỉnh Đồng Tháp giúp gia tăng thu nhập cho người dân, đồng thời giảm phát thải nhà kính. Ảnh: Tô Huy

Mô hình nuôi cá tra sinh thái tại tỉnh Đồng Tháp giúp gia tăng thu nhập cho người dân, đồng thời giảm phát thải nhà kính. Ảnh: Tô Huy

Nông nghiệp Việt Nam đã đạt nhiều thành tựu ấn tượng: đứng thứ hai ASEAN và thứ 15 thế giới về kim ngạch xuất khẩu nông sản; đóng góp khoảng 14% GDP; đảm bảo an ninh lương thực với hơn 525kg lúa/người/năm. Tuy nhiên, mô hình tăng trưởng dựa trên thâm canh cao độ đã khiến môi trường bị suy thoái, đa dạng sinh học giảm sút, tài nguyên đất-nước bị tổn thương, trong khi sinh kế người dân nông thôn trở nên bấp bênh. Bất bình đẳng vùng, nhóm ngày càng rõ nét.

Theo Ủy ban Liên chính phủ về biến đổi khí hậu (IPCC, 2023), khoảng 40% diện tích Đồng bằng sông Cửu Long-vựa lương thực quốc gia có nguy cơ ngập, nếu mực nước biển dâng thêm 1m, đe dọa sinh kế của hơn 17 triệu người (Niên giám Thống kê Việt Nam, 2023). Trước bối cảnh biến đổi khí hậu, mất đa dạng sinh học và nguy cơ mất an ninh lương thực, việc hình thành các mô hình nông nghiệp sinh thái thích ứng là con đường duy nhất để phát triển bền vững.

Những mô hình nông nghiệp sinh thái hiệu quả trên thực tế

Tại Khu bảo tồn đất ngập nước Láng Sen (thuộc tỉnh Long An trước đây, nay là tỉnh Tây Ninh), mô hình nông nghiệp sinh thái đang được triển khai rộng rãi. Ông Nguyễn Công Toại, Phó Giám đốc khu bảo tồn cho biết, Láng Sen là khu Ramsar thứ 7 của Việt Nam và thứ 2.227 của thế giới, có vai trò điều hòa vi khí hậu, điều tiết lũ, bổ sung nước ngầm và bảo tồn sinh cảnh cho nhiều loài chim, cá. Ở các xã vùng đệm như Vĩnh Thạnh, Vĩnh Châu và Tân Hưng, khu bảo tồn đã triển khai các dự án nông nghiệp sinh thái như trồng 120ha lúa mùa nước nổi kết hợp cá mùa lũ với 33 hộ dân tham gia; 8 hộ trồng sen kết hợp nuôi cá trên diện tích 40ha; thí nghiệm mô hình lúa giảm phát thải, trồng nấm rơm sạch và đan lát lục bình. Các mô hình này giúp nông dân tăng thu nhập, cải thiện môi trường và gia tăng đa dạng sinh học. Cụ thể, lợi nhuận trung bình đạt 18 triệu đồng/ha với mô hình lúa mùa-cá; hơn 41 triệu đồng/ha với mô hình sen-cá; riêng đan lục bình mang lại khoảng 5 triệu đồng/tháng. Đặc biệt, phát thải khí nhà kính giảm đáng kể: mô hình sen-cá chỉ phát thải 5,03 tấn CO₂ tương đương/ha/vụ (giảm 73,2%), mô hình lúa-cá giảm 46% so với canh tác lúa vụ 3 truyền thống.

Không chỉ ở miền Tây, các mô hình nông nghiệp sinh thái tại Tây Bắc và Tây Nguyên cũng đang chứng minh hiệu quả rõ rệt. Theo ông Nguyễn Quang Tân, Trung tâm Nghiên cứu nông-lâm quốc tế (ICRAF), dự án “Sinh thái nông nghiệp tạo cảnh quan bền vững cho người nghèo miền núi phía Bắc” triển khai từ năm 2021 tại Trạm Tấu (Yên Bái) và Kim Bôi (Hòa Bình) đã thu hút 222 hộ dân tham gia.

Tại Trạm Tấu, nông dân trồng đào, mận, hồng, ổi, dổi, chè Shan trên hơn 50ha; tại Kim Bôi, người dân trồng trám, dổi, tre trên 50ha. Các mô hình nông-lâm kết hợp không chỉ giúp giảm xói mòn đất 34-43%, mà còn mang lại thu nhập ổn định, tăng 2,4–3,5 lần so với trồng độc canh ngô hoặc sơn tra. Mặc dù chi phí đầu tư cao trong năm đầu, song hầu hết mô hình đều đạt điểm hòa vốn sau 3 năm và cho thu nhập bền vững sau 7 năm.

Những minh chứng thực tế này khẳng định, nông nghiệp sinh thái không chỉ bảo vệ thiên nhiên, mà còn mở rộng cơ hội phát triển kinh tế-xã hội cho người dân vùng khó khăn.

Từ mô hình thí điểm đến chính sách quốc gia

Theo ông Nguyễn Đỗ Anh Tuấn, Vụ trưởng Vụ Hợp tác quốc tế (Bộ Nông nghiệp và Môi trường), nông nghiệp sinh thái ở Việt Nam là hành trình dài từ nhận thức đến hành động. Từ những mô hình thí điểm ban đầu ở Đồng bằng sông Hồng, Đồng bằng sông Cửu Long, Tây Nguyên, Sơn La..., Việt Nam đã từng bước mở rộng quy mô và thể chế hóa trong các chương trình, đề án và chính sách quốc gia.

Năng suất cây trồng tăng cao hơn nhờ kỹ thuật canh tác thuận thiên, giảm phụ thuộc vào phân bón hữu cơ. Ảnh: Thu Hằng

Năng suất cây trồng tăng cao hơn nhờ kỹ thuật canh tác thuận thiên, giảm phụ thuộc vào phân bón hữu cơ. Ảnh: Thu Hằng

Các mô hình như vườn-ao-chuồng ở Đồng bằng sông Hồng, lúa-sen-cá ở Đồng Tháp, tôm-rừng ở Cà Mau, cà phê hữu cơ ở Lâm Đồng, nông-lâm kết hợp ở Tây Bắc, hay du lịch sinh thái cộng đồng tại Tràm Chim đều chứng minh “lợi ích kép” về sinh thái và kinh tế. Riêng tại Đồng bằng sông Cửu Long, các hợp tác xã áp dụng mô hình 1 triệu ha lúa chất lượng cao, phát thải thấp đã giúp năng suất ổn định, thu nhập nông dân tăng 30-50%, trong khi phát thải giảm tới 40-70%. “Thuận thiên là thuận dân, thuận đời, thuận tương lai”-đó là tinh thần xuyên suốt của nông nghiệp sinh thái Việt Nam.

Tại Hội nghị “Thúc đẩy nông nghiệp sinh thái và chuyển đổi hệ thống lương thực-thực phẩm thích ứng biến đổi khí hậu”, ông Tạ Đình Thi, Phó Chủ nhiệm Ủy ban Khoa học, Công nghệ và Môi trường nhấn mạnh: “Trong bối cảnh thế giới đối mặt đồng thời ba khủng hoảng: khí hậu, đa dạng sinh học và an ninh lương thực, nông nghiệp sinh thái không chỉ là phương thức canh tác mới, mà là định hướng phát triển tất yếu của quốc gia. Đây là con đường giúp Việt Nam thực hiện cam kết đạt Net Zero năm 2050, Thỏa thuận Paris và Khung đa dạng sinh học toàn cầu, đồng thời bảo đảm an ninh lương thực gắn với an ninh sinh thái”.

Ông Thi cho rằng, để phát triển nông nghiệp sinh thái và chuyển đổi hệ thống lương thực-thực phẩm bền vững, cần hoàn thiện thể chế pháp luật, tạo khung chính sách đồng bộ. Các luật về đất đai, tài nguyên, môi trường, khoa học-công nghệ và tín dụng xanh phải được thiết kế theo hướng khuyến khích kinh tế tuần hoàn, sử dụng hiệu quả tài nguyên thiên nhiên. Song song với đó, phải thúc đẩy đổi mới sáng tạo, hợp tác đa phương và huy động nguồn lực xã hội.

“Nông nghiệp sinh thái không chỉ là ngành sản xuất, mà là một nền văn hóa phát triển mới, nơi con người, thiên nhiên và kinh tế cùng song hành. Khi nói về phát triển bền vững, nông nghiệp sinh thái chính là điểm hội tụ của ba giá trị: khí hậu, đa dạng sinh học và sinh kế. Quốc hội sẽ tiếp tục giám sát, bảo đảm mọi cam kết về phát triển xanh, bao trùm và công bằng được thực hiện thực chất, từ nghị trường đến đồng ruộng”-ông Thi khẳng định.

Nông nghiệp sinh thái đang trở thành xu thế chủ đạo của tương lai nông nghiệp Việt Nam. Đó không chỉ là sự lựa chọn để thích ứng với biến đổi khí hậu, mà còn là chiến lược phát triển giúp đất nước đạt được mục tiêu tăng trưởng xanh, công bằng và bền vững, nơi mỗi mùa vụ không chỉ mang lại hạt gạo, trái cây, hay tôm cá..., mà còn là những “trái ngọt” của hòa hợp giữa con người và thiên nhiên.

Thu Hằng

Nguồn Biên Phòng: https://bienphong.com.vn/thuc-day-chuyen-doi-nong-nghiep-sinh-thai-thich-ung-voi-bien-doi-khi-hau-post495745.html