Thu thuế thu nhập cá nhân từ hợp đồng ủy quyền

Báo Pháp luật TPHCM vừa phản ánh trường hợp người dân khiếu nại cơ quan thuế vì cho rằng cơ quan thuế đã tính thuế thu nhập cá nhân hai lần do việc sử dụng hợp đồng ủy quyền chuyển nhượng bất động sản(1). Theo bài báo, đây không phải trường hợp cá biệt trên thực tế.

Các tình huống ủy quyền

Trên thực tế, có thể có hai tình huống sử dụng hợp đồng ủy quyền trong giao dịch về nhà đất.

Một là, các bên sử dụng hợp đồng ủy quyền như một hình thức giả cách, lẩn tránh việc thực hiện một số nghĩa vụ hay quy định của pháp luật. Tình huống đó có thể xảy ra khi các bên mua bán nhà hay chuyển nhượng quyền sử dụng đất nhưng muốn tránh nghĩa vụ thuế như lập luận của cơ quan thuế. Nhưng trong nhiều trường hợp, chính các bên cũng phải “miễn cưỡng” sử dụng hình thức này do không đáp ứng đầy đủ điều kiện để ký hợp đồng mua bán hay chuyển nhượng nhà, đất, như nhà, đất chưa được cấp giấy chứng nhận quyền sở hữu/sử dụng (sổ đỏ), đất đang thế chấp hay thậm chí là đất chưa được nộp tiền sử dụng đất.

Hai là, việc sử dụng hợp đồng ủy quyền là nhu cầu thật sự của các bên và điều này được pháp luật cho phép. Đó là chưa xét đến quan điểm “người dân và doanh nghiệp được làm những gì luật không cấm” thể hiện trong Nghị quyết 66-TW/NQ.

Rõ ràng, nếu phủ nhận giao dịch này thì đồng nghĩa phủ nhận quy định của pháp luật, cụ thể là quy định của Bộ luật Dân sự. Cơ quan thuế cũng không thể vì yêu cầu thu thuế mà tước bỏ quyền hay phủ nhận giá trị của giao dịch. Đương nhiên, việc thu thuế đối với thu nhập là thù lao từ việc nhận ủy quyền (nếu có) là hiển nhiên, và đó là thuế phát sinh từ chính hợp đồng ủy quyền (chứ không phải mua bán).

Vấn đề gây tranh cãi là xác định giao dịch mua bán và thu nhập từ việc mua bán, chuyển nhượng bất động sản.

Rõ ràng, việc phủ nhận giá trị của hợp đồng ủy quyền, xác định đó là giao dịch mua bán thực tế và thực hiện việc thu thuế chỉ có thể xảy ra đối với tình huống thứ nhất. Tuy nhiên, ngoài việc phải xác định giao dịch mua bán ẩn giấu sau hợp đồng ủy quyền (giả cách), điểm pháp lý quan trọng là ai hay cơ quan nào có thẩm quyền xác định nội dung đó?

Thu thuế thu nhập cá nhân từ hợp đồng ủy quyền. Ảnh: LH

Thu thuế thu nhập cá nhân từ hợp đồng ủy quyền. Ảnh: LH

Văn bản hướng dẫn có tác động gì?

Cơ sở quan trọng được viện dẫn cho tình huống này là hai công văn của Tổng cục Thuế (cũ) ban hành từ năm 2011: Công văn 1133/TCT-TNCN và 3373/TCT-TNCN. Bên cạnh việc khẳng định tính hợp pháp của giao dịch ủy quyền, các văn bản này đều đặt ra yêu cầu phải thu thuế thu nhập từ việc bán, chuyển nhượng nhà, đất. Chưa bàn đến tính pháp lý của hình thức công văn (văn bản hành chính được sử dụng thay thế cho văn bản pháp quy trong nhiều trường hợp, trong thực tiễn công tác quản lý thuế), một số nội dung hướng dẫn của các văn bản này có thể gây tranh cãi.

Thứ nhất, cả hai công văn sử dụng quy định về thu nhập được miễn thuế tại điều 4 Luật Thuế thu nhập cá nhân (TNCN) 2007 để xác định đối tượng được miễn thuế. Cho dù thế nào, việc cần phải làm là xác định thu nhập chịu thuế trước, vì quy định về miễn thuế chỉ xuất hiện khi xác định được thu nhập chịu thuế. Mà việc xác định thu nhập chịu thuế phụ thuộc vào giao dịch có phát sinh thu nhập.

Thứ hai, Công văn 1133 dựa vào nội dung ủy quyền và lựa chọn nhận ủy quyền có thù lao hay không có thù lao để phủ nhận giá trị pháp lý của hợp đồng ủy quyền, khi cho rằng ủy quyền không nhận thù lao là… mua bán. Trong khi đó, pháp luật dân sự cho phép các bên thực hiện điều đó.

Thứ ba, Công văn 3373 xác định trường hợp nào thực hiện việc thu thuế TNCN mà không phải xác định tính chất, nội dung của hợp đồng ủy quyền (ngoài trường hợp cần phải xác minh). Tuy nhiên, khi khẳng định hợp đồng ủy quyền là hợp đồng mua bán, chuyển nhượng bất động sản thì công văn không nêu rõ người ủy quyền phải nộp thuế dựa trên giá tính thuế nào. Cơ quan thuế có đương nhiên dựa trên giá nhà, đất mà Nhà nước quy định hay không, vì rõ ràng hợp đồng ủy quyền không thể có nội dung về giá mua bán, chuyển nhượng bất động sản.

Thứ tư, dù đã xác định trường hợp nào hợp đồng ủy quyền cần phải xác minh như đã nói ở trên, nhưng căn cứ để phân định hai trường hợp này chưa được Công văn 3373 nêu rõ.

Như vậy, có thể thấy, nội dung đề cập của các văn bản này có thể ảnh hưởng đến quá trình triển khai nghiệp vụ của các cơ quan thuế tại các địa phương. Vướng mắc như trường hợp báo chí nêu vì vậy dễ xảy ra.

Cơ quan hành chính có được toàn quyền quyết định?

Trở lại với tình huống thứ nhất - hợp đồng ủy quyền giả cách - được đề cập ở trên. Hậu quả lớn nhất cho sự lựa chọn đó đối với các bên là hợp đồng có thể bị tuyên bố vô hiệu, và trong nhiều trường hợp còn phải gánh chịu tránh nhiệm pháp lý do không tuân thủ pháp luật. Đó là sự trả giá mà nhà làm luật đã đặt ra cho các quyết định đó của họ. Nếu sự trả giá đó là chưa đủ, pháp luật cần phải điều chỉnh, bổ sung.

Cho nên, thay vì phủ nhận quan hệ ủy quyền, cơ quan thuế cần chứng minh có sự hiện hiện của giao dịch mua bán bất động sản.

Điểm sáng quan trọng của Công văn 3373 là đặt ra yêu cầu phải xác minh tính chất pháp lý của hợp đồng ủy quyền trong một số trường hợp. Về mặt lý thuyết, quy trình đó phải được thực hiện “ngoài cơ quan thuế”. Cơ quan thuế vẫn có thể kiểm tra, thẩm định, đưa ra ý kiến, nhưng kết quả đó cần có sự chấp nhận của bên có liên quan. Các quy định pháp luật về hiệu lực của hợp đồng ủy quyền trong trường hợp này là chuẩn mực để các bên xem xét, tiến tới sự đồng thuận.

Nếu các bên không đạt được sự đồng thuận, về mặt lý thuyết, cơ quan thuế không có thẩm quyền để xác định hành vi giả cách thông qua việc ký kết hợp đồng. Việc xác định hợp đồng ủy quyền vô hiệu vì lý do giả cách phải được thực hiện bởi các cơ quan tài phán.

Đương nhiên, cơ quan thuế có thể đề nghị cơ quan điều tra tiến hành điều tra về hành vi trốn thuế thông qua hình thức hợp đồng giả cách đó. Dù vậy, trong một số trường hợp, như các bên ký kết hợp đồng ủy quyền do không đủ điều kiện tiến hành giao dịch mua bán, chuyển nhượng bất động sản, mà xác định đó là hành vi trốn thuế thì khá khiên cưỡng.

Trở lại với hiệu lực ủy quyền và việc mua bán, chuyển nhượng giả cách, tại nhiều quốc gia, khi bộ máy hành chính là một bên của quan hệ thì lúc cần phản bác hay chứng minh điều gì, cơ quan quản lý sẽ phải đệ đơn yêu cầu lên các cơ quan tài phán có thẩm quyền. Đơn cử như trường hợp tương tự của bài viết, theo mô hình phổ biến, tòa án (chứ không phải cơ quan điều tra hay chính quyền địa phương) là nơi có thẩm quyền xác định tính chất và hiệu lực của hợp đồng. Mô hình đó vừa tránh sự lạm quyền của bộ máy hành chính, và quan trọng hơn là vừa hàm ý về một quy trình khá chặt chẽ cần phải được áp dụng để bảo đảm pháp chế và bảo đảm quyền lợi các bên.

Nói tóm lại, như nội dung tư tưởng của Nghị quyết 66-TW/NQ, việc xây dựng các quy định pháp luật rõ ràng và hướng đến các phương án thực thi hiệu quả sau đó sẽ giúp quá trình thực thi pháp luật thuận tiện và hiệu quả hơn. Một cơ chế thực thi pháp luật hiệu quả cũng là yếu tố bảo đảm tính hiệu quả của cả hệ thống pháp luật.

Nội dung vụ việc

Theo đơn của bà D, ngày 22-11-2022 bà có ủy quyền cho ông P.T.H thay mình ký các văn bản chuyển nhượng bất động sản tại phường Phước Thắng, TPHCM trong thời gian bà D không có mặt tại Việt Nam.

Khi ông H thực hiện giao dịch chuyển nhượng tài sản trên, cơ quan thuế đã tính thuế TNCN hai lần, tức là vừa tính thuế đối với người ủy quyền - chủ sở hữu tài sản là bà D, vừa tính thuế đối với người được ủy quyền khi thực hiện chuyển nhượng là ông H.

Nhận thấy việc tính thuế hai lần là không phù hợp nên ngày 18-7-2025, bà D đã có văn bản kiến nghị cho rằng bản thân chỉ ủy quyền cho ông H ký thay trên văn bản chuyển nhượng, không phải là ủy quyền cho ông H định đoạt/chuyển nhượng tài sản. Đến ngày 23-7, Thuế cơ sở 24 TPHCM có văn bản trả lời.

Theo đó, Thuế cơ sở 24 TPHCM đã trích dẫn các điều 158 (Quyền Sở hữu), điều 562 (hợp đồng ủy quyền) của Bộ luật Dân sự 2015; điều 2 (đối tượng nộp thuế), điều 4 (thu nhập được miễn thuế) của Luật Thuế TNCN để nhận định: Ủy quyền giao dịch bất động sản là một hình thức giao dịch dân sự được luật pháp cho phép. Tuy nhiên, việc cá nhân có đầy đủ năng lực dân sự mà ủy quyền cho cá nhân khác không thuộc đối tượng được miễn thuế, được toàn quyền thực hiện việc chiếm hữu, quản lý, sử dụng và định đoạt bất động sản của mình, bao gồm cả việc chuyển nhượng; đồng thời bên được ủy quyền không nhận thù lao thì thực chất đây là hoạt động mua, bán bất động sản. Do đó, người ủy quyền phải có nghĩa vụ kê khai và nộp thuế TNCN theo quy định của Luật Thuế TNCN.

Theo Pháp luật TPHCM

(*) Trường Đại học Kinh tế - Luật, ĐHQG TPHCM.
(1) Hữu Đăng, Tính thuế 2 lần khi ủy quyền chuyển nhượng bất động sản: Có hợp lý?, Pháp luật TPHCM, ngày 15-8-2025. Truy cập tại: https://plo.vn/tinh-thue-2-lan-khi-uy-quyen-chuyen-nhuong-bat-dong-san-co-hop-ly-post864685.html

Trương Trọng Hiểu (*)

Nguồn Saigon Times: https://thesaigontimes.vn/thu-thue-thu-nhap-ca-nhan-tu-hop-dong-uy-quyen/
Zalo