Thời điểm hội tụ tổng hòa các lợi thế, sức mạnh để dân tộc vươn lên

Những bài học nhạy bén nhận thức tình hình, kịp thời nắm bắt thời cơ năm xưa được kế thừa và phát triển, giúp chúng ta hôm nay thêm tự tin bước vào chặng đường phát triển mới.

Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc Tuyên ngôn độc lập ngày 2/9/1945. (Ảnh tư liệu)

Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc Tuyên ngôn độc lập ngày 2/9/1945. (Ảnh tư liệu)

Cuộc Cách mạng tháng Tám vĩ đại của dân tộc đã đánh dấu thắng lợi trọn vẹn bằng Tuyên ngôn độc lập khai sinh nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Những điều kiện “thiên thời, địa lợi, nhân hòa” đã hội tụ, chín muồi để có một kết thúc thăng hoa.

Tập hợp “nhân hòa”, phát triển “địa lợi”,đón đúng “thiên thời”

Trước tình hình đang chuyển biến nhanh chóng, Hội nghị Trung ương 8 của Đảng, tháng 5/1941, đã quyết định thành lập Việt Nam Độc lập Đồng minh - gọi tắt là Mặt trận Việt Minh, quyết tâm “làm cho nước Việt Nam được hoàn toàn độc lập, làm cho dân Việt Nam được sung sướng tự do”. Mặt trận Việt Minh tập hợp mọi lực lượng, các tổ chức và và cá nhân, các tầng lớp trong xã hội “cùng nhau mưu cuộc giải phóng và sinh tồn”. Các tầng lớp quần chúng được tổ chức trong những Hội Cứu quốc kết thành một phong trào Việt Minh sôi nổi. Thông qua Mặt trận Việt Minh, Đảng đã xây dựng được khối lực lượng chính trị quần chúng mạnh mẽ, được rèn luyện qua những phong trào cách mạng, trên địa bàn rộng lớn khắp cả nước. Lực lượng yêu nước và cách mạng được mở rộng, tập hợp, tổ chức và rèn luyện trong Cao trào Kháng Nhật cứu nước đã sẵn sàng đón thời cơ giành độc lập.

Hội nghị Trung ương 8 cũng nhận định: “Cuộc cách mạng Đông Dương phải kết liễu bằng một cuộc võ trang khởi nghĩa”[1]. Từ nhân định định đó, Đảng chủ trương phát triển lực lượng vũ trang cách mạng, xây dựng căn cứ cách mạng. Trong những năm 1941-1944, những đội du kích, đội tự vệ được xây dựng ở nhiều xã, nhiều huyện thuộc tỉnh Cao Bằng.Các trung đội cứu quốc quân 1, 2, 3 được duy trì sau cuộc khởi nghĩa Bắc Sơn tiếp tục được củng cố. Các căn cứ địa được xây dựng và mở rộng. Nhiều căn cứ trở thành chiến khu, khu giải phóng. Tại các căn cứ địa cách mạng, Đảng vừa xây dựng, phát triển lực lượng chính trị, huấn luyện, đào tạo cán bộ, vận động tổ chức quần chúng, vừa xây dựng lực lượng vũ trang và phát động đấu tranh vũ trang khi có thời cơ thuận lợi.

Bác Hồ căn dặn cán bộ, chiến sĩ Đại đoàn quân Tiên Phong tại Khu Di tích lịch sử Đền Hùng. Ảnh: TTXVN

Bác Hồ căn dặn cán bộ, chiến sĩ Đại đoàn quân Tiên Phong tại Khu Di tích lịch sử Đền Hùng. Ảnh: TTXVN

Đảng cũng xúc tiến xây dựng các An toàn khu (ATK) của Trung ương ở ngoại vi các đô thị là nơi có lực lượng đông đảo nhân dân lao động, tiểu thương, học sinh, trí thức, công chức tiến bộ, là chỗ dựa vững chắc để phát động đấu tranh bằng nhiều hình thức và mức độ phù hợp tình thế chung của cả nước. Đến Cao trào kháng Nhật cứu nước, các căn cứ cách mạng trên các địa bàn quan trọng như Khu giải phóng Việt Bắc, chiến khu Trần Hưng Đạo (Đông Triều), chiến khu Quang Trung (Hòa - Ninh - Thanh); chiến khu Vần - Hiền Lương (Phú Thọ-Yên Bái), khu du kích Ba Tơ… đã có những tác động trực tiếp thúc đẩy phong trào cách mạng tại chỗ phát triển đồng thời còn chi viện lực lượng, hỗ trợ đấu tranh cho các địa phương khác.

Khi phân tích tình hình thế giới và diễn biến cuộc chiến tranh giữa phe phát xít và Đồng minh, Hồ Chí Minh sớm khẳng định thắng lợi cuối cùng sẽ thuộc về phe dân chủ và nhận định thời cơ giải phóng dân tộc đang đến rất gần, tình thế cách mạng sắp xuất hiện:

“Ấy là nhịp tốt cho ta,
Nổi lên khôi phục nước nhà tổ tông”[2].

Hồ Chí Minh đã nhạy bén và sáng suốt chủ trương thiết lập các mối liên hệ với lực lượng Đồng minh, cụ thể là Mỹ, để tăng thêm nguồn ngoại lực cho cách mạng Việt Nam, tăng thêm lực lượng ngoại giao, uy thế chính trị của Việt Minh trong cuộc đấu tranh giành độc lập cho dân tộc và tạo ra những tiền đề cho việc xác lập vị thế của nước Việt Nam độc lập sau này.

Ngày 13/8/1945, nhạy bén nắm tin Nhật Bản đầu hàng Đồng minh, nhận rõ thời cơ lịch sử đã tới, Hồ Chí Minh kịp thời đề xuất Thường vụ Trung ương Đảng và Tổng bộ Việt Minh thành lập Ủy ban dân tộc giải phóng. Ngày 18/8/1945, Người kêu gọi toàn thể quốc dân Việt Nam: “Giờ quyết định cho vận mệnh dân tộc ta đã đến. Toàn quốc đồng bào hãy đứng dậy đem sức ta mà tự giải phóng cho ta… Chúng ta không thể chậm trễ”[3].

Thành công trọn vẹn của cuộc Cách mạng tháng Tám là kết quả tổng hợp của nhiều yếu tố, hội tụ cả “thiên thời, địa lợi, nhân hòa”. Với tư duy chiến lược đúng đắn, trong giai đoạn cuối của cuộc vận động giải phóng dân tộc 1941-1945, Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản Đông Dương đã nhạy bén nhận thức tình thế, kiên trì xây dựng lực lượng và sáng tận dụng cơ hội để Tổng khởi nghĩa toàn dân bùng nổ thành công. Hôm nay, những bài học kinh nghiệm đó vẫn mang nhiều ý nghĩa.

Hình ảnh lễ tổng duyệt diễu binh diễu hành kỷ niệm 80 năm cách mạng tháng Tám và Quốc khánh 2/9. (Ảnh: Nguyễn Hồng)

Hình ảnh lễ tổng duyệt diễu binh diễu hành kỷ niệm 80 năm cách mạng tháng Tám và Quốc khánh 2/9. (Ảnh: Nguyễn Hồng)

Tầm nhìn hướng đến tương lai

Kỷ nguyên độc lập, tự do được Chủ tịch Hồ Chí Minh tiên phong mở ra từ năm 1945 và tiếp nối làm nên kỳ tích về một nước thuộc địa nửa phong kiến đã giành lại và bảo vệ được độc lập dân tộc trước những kẻ xâm lược hùng mạnh. Những thành tựu to lớn của Kỷ nguyên Đổi mới và phát triển do Đảng Cộng sản Việt Nam khởi đầu từ năm 1986 đã tạo ra kỳ tích về một nước thành công vượt lên từ khủng hoảng. Từ một nước nghèo nàn, lạc hậu, bị chiến tranh tàn phá, trình độ phát triển thấp, bị bao vây, cấm vận, Việt Nam đã là nước đang phát triển, có thu nhập trung bình, hội nhập sâu, rộng vào nền chính trị thế giới, nền kinh tế toàn cầu, nền văn minh nhân loại, đảm nhiệm nhiều trọng trách quốc tế, phát huy vai trò tích cực tại nhiều tổ chức, diễn đàn đa phương quan trọng. Độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ được giữ vững; lợi ích quốc gia, dân tộc được bảo đảm.

Những thành tựu đạt được sau 40 năm Đổi mới đã giúp Việt Nam tích lũy đủ thế và lực cho sự phát triển bứt phá trong tương lai. Tiếp sau Kỷ nguyên Độc lập, Tự do và Kỷ nguyên Đổi mới sẽ là Kỷ nguyên vươn mình của dân tộc Việt Nam mang nội hàm là kỷ nguyên phát triển, kỷ nguyên giàu mạnh, kỷ nguyên thịnh vượng, dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.

Su-30MK2 thả đạn nhiễu, bay giữa Quảng trường Ba Đình trong tổng duyệt diễu binh, ngày 30/8. (Ảnh: Nguyễn Hồng)

Su-30MK2 thả đạn nhiễu, bay giữa Quảng trường Ba Đình trong tổng duyệt diễu binh, ngày 30/8. (Ảnh: Nguyễn Hồng)

Tổng Bí thư Tô Lâm chỉ rõ: “Thời điểm bắt đầu kỷ nguyên mới sẽ bắt đầu từ Đại hội XIV của Đảng”. Chúng ta đã nhận thức thời gian và không gian phát triển. Khoảng thời gian từ nay đến năm 2030 là thời cơ lịch sử hội tụ các điều kiện “cần” và “đủ”, tổng hòa các lợi thế, các nguồn lực đưa đất nước bước vào kỷ nguyên mới, để dân tộc giành những thắng lợi quyết định. Đó là khoảng thời gian chứa dựng thời cơ tăng thêm sức mạnh cho dân tộc vươn lên trong bối cảnh diễn ra các bước chuyển có tính thời đại của một thế giới đang thay đổi mạnh mẽ. Không gian phát triển của chúng ta là toàn cầu rộng lớn đang được sắp xếp lại trật tự.

Hôm nay, các điều kiện hội tụ để dân tộc bước vào Kỷ nguyên vươn mình của dân tộc Việt Nam đã mạnh mẽ và rộng lớn hơn rất nhiều so với 80 năm trước. Kỷ nguyên vươn mình của dân tộc hội tụ thực lực nội sinh của dân tộc kết hợp với ngoại lực do thời cơ mang lại với tinh thần nỗ lực, tự tin thực hiện thắng lợi các mục tiêu chiến lược đến năm 2030 Việt Nam trở thành nước đang phát triển, có công nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao; đến năm 2045 trở thành nước phát triển, có thu nhập cao, thực hiện khát vọng “Xây dựng một nước Việt Nam hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh, và góp phần xứng đáng vào sự nghiệp cách mạng thế giới” (Di chúc) như tâm nguyện cuối cùng của Chủ tịch Hồ Chí Minh.

Hôm nay, cả dân tộc đồng lòng, chung sức, nắm lấy thời cơ, tận dụng thuận lợi, vượt lên thách thức, tạo bước bứt phá để đưa đất nước phát triển toàn diện, mạnh mẽ, đạt mục những tiêu chiến lược với mốc 100 năm thành lập Đảng, tạo tiền đề vững chắc để vươn lên đạt các thành tựu lịch sử ghi dấu một thế kỷ thành lập nước Việt Nam mới.

[1] Đảng Cộng sản Việt Nam (2000): Văn kiện Đảng Toàn tập, tập 7 - Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr 129.

[2] Hồ Chí Minh (2011): Toàn tập, tập 3 - Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr. 265.

[3] Thư kêu gọi tổng khởi nghĩa - Hồ Chí Minh (2011): Toàn tập, tập 3, Sđd, tr. 596.

TS. Ngô Vương Anh

Nguồn TG&VN: https://baoquocte.vn/thoi-diem-hoi-tu-tong-hoa-cac-loi-the-suc-manh-de-dan-toc-vuon-len-326030.html
Zalo