Thiếu cả triệu mét khối cát, cao tốc Châu Đốc - Cần Thơ - Sóc Trăng khó bứt tốc

Thừa ủy quyền của Thủ tướng Chính phủ, Bộ trưởng Bộ Xây dựng Trần Hồng Minh vừa ký văn bản báo cáo Quốc hội tình hình thực hiện Nghị quyết số 60/2022 về chủ trương đầu tư dự án đường bộ cao tốc Châu Đốc - Cần Thơ - Sóc Trăng giai đoạn 1.

Cát sông trữ lượng thấp, cát biển chỉ phù hợp một số đoạn ngắn

Báo cáo nêu rõ, theo yêu cầu của Quốc hội, dự án Châu Đốc - Cần Thơ - Sóc Trăng sẽ cơ bản hoàn thành năm 2026, đưa vào khai thác đồng bộ năm 2027.

Thi công cao tốc Châu Đốc - Cần Thơ - Sóc Trăng (Ảnh: Lê An).

Thi công cao tốc Châu Đốc - Cần Thơ - Sóc Trăng (Ảnh: Lê An).

Đến nay, việc triển khai dự án chưa đáp ứng kế hoạch đề ra, đặc biệt là hạng mục nền đường, xử lý nền đất yếu.

Trong đó, sản lượng thi công dự án thành phần 1 mới đạt 55%, dự án thành phần 2 đạt 42%, dự án thành phần 3 đạt 47% và dự án thành phần 4 đạt 41% giá trị hợp đồng. Nguyên nhân chủ yếu do thiếu hụt nguồn vật liệu cát đắp.

Dự án cao tốc Châu Đốc - Cần Thơ - Sóc Trăng được đầu tư với tổng chiều dài hơn 188km, quy mô 4 làn xe, tổng mức đầu tư gần 44.700 tỷ đồng.

Dự án được chia làm 4 dự án thành phần, gồm: Dự án thành phần 1 (dài 57km) do UBND tỉnh An Giang làm cơ quan chủ quản, sơ bộ tổng mức đầu tư gần 13.800 tỷ đồng.

Dự án thành phần 2, 3, 4 (tổng chiều dài hơn 132km) do UBND TP Cần Thơ làm cơ quan chủ quản, tổng mức đầu tư gần 30.900 tỷ đồng.

Thông tin rõ hơn về tình hình cung ứng vật liệu cho dự án, báo cáo của Chính phủ cho biết, theo tính toán, tổng nhu cầu cát đắp của dự án xấp xỉ 29 triệu m3, đất đắp 2,7 triệu m3, đá khoảng 4,5 triệu m3.

Với cơ chế đặc thù nhằm rút ngắn thời gian cấp phép mỏ được Quốc hội, Chính phủ cho phép áp dụng cùng sự chỉ đạo quyết liệt của Thủ tướng Chính phủ, sự phối hợp hiệu quả, trách nhiệm của các bộ, ngành, địa phương, nguồn vật liệu phục vụ thi công các dự án thành phần đã cơ bản được xác định nhưng chưa đáp ứng được nhu cầu.

Tại dự án thành phần 1, tổng nhu cầu vật liệu cát là 9,3 triệu m3, đã đủ điều kiện khai thác 9,3 triệu m3 tại các mỏ trong tỉnh An Giang, đã đưa về công trường 6 triệu m3.

Tổng nhu cầu đá 1,2 triệu m3 đã được phân bổ đủ, nhà thầu đã đưa về công trường 0,3 triệu m3.

Tại dự án thành phần 2, tổng nhu cầu cát là 7 triệu m3, đã đủ điều kiện khai thác 6,1 triệu m3 (từ các mỏ An Giang 3,2 triệu m3; các mỏ ở Đồng Tháp 2,9 triệu m3), đã đưa về công trường xấp xỉ 2 triệu m3.

Tổng nhu cầu vật liệu đá 0,8 triệu m3, đã phân bổ 0,35 triệu m3, đã đưa về công trường 0,14 triệu m3.

Tại dự án thành phần 3, tổng nhu cầu cát là 6 triệu m3, đã đủ điều kiện khai thác hơn 5 triệu m3 (từ các mỏ An Giang 3 triệu m3, các mỏ ở Vĩnh Long hơn 2 triệu m3), đã đưa về công trường 2,1 triệu m3 (từ các mỏ An Giang).

Tổng nhu cầu đá 1,2 triệu m3, đã phân bổ 0,49 triệu m3, đã đưa về công trường 0,34 triệu m3.

Tại dự án thành phần 4, tổng nhu cầu cát 6,6 triệu m3, hiện đã đủ điều kiện khai thác từ các mỏ sông trong tỉnh, đã đưa về công trường 2 triệu m3.

Do công suất khai thác và trữ lượng thực tế của cát sông rất thấp, UBND tỉnh Sóc Trăng đã triển khai, hoàn thành thủ tục khai thác cát biển nhưng mới chỉ sử dụng được tại một số đoạn ngắn nằm trong vùng nhiễm mặn.

Tổng nhu cầu đá 1,3 triệu m3, đã phân bổ 0,65 triệu m3, đã đưa về công trường 0,2 triệu m3.

Bù đắp khối lượng thiếu từ mỏ cát đặc thù đã cấp cho dự án khác

Tính chung những con số nêu trên, tính đến nay, thủ tục cấp phép khai thác cát đã thực hiện được gần 27 triệu m3 trên tổng nhu cầu xấp xỉ 29 triệu m3.

Đáp ứng nhu cầu cát thi công, các địa phương đang tiếp tục rà soát các mỏ cát để bổ sung trữ lượng, thực hiện các thủ tục điều chuyển mỏ cát đã được cấp phép theo cơ chế đặc thù của dự án khác (như cao tốc Bắc - Nam đoạn Hậu Giang - Cà Mau) đang còn trữ lượng nhưng không còn nhu cầu khai thác.

Với vật vật liệu đá, công tác phân bổ đã thực hiện được gần 2,7 triệu m3 trên tổng nhu cầu 4,5 triệu m3.

Các địa phương đang tiếp tục rà soát, đăng ký thêm các nguồn tại Đồng Nai, Kiên Giang, Bà Rịa - Vũng Tàu, TP.HCM (tỉnh Bình Dương cũ) để bổ sung khối lượng còn thiếu.

Theo đánh giá, hiện nay, tiến độ thi công phần cầu của dự án đáp ứng yêu cầu, dự kiến cơ bản hoàn thành trong năm 2025.

Tuy vậy, hạng mục quyết định tiến độ dự án là thi công phần đường. Trong đó, khối lượng đắp gia tải mới đạt 33% (gia tải các đoạn xử lý đất yếu bằng bấc thấm đạt 46/141km). Nếu không tăng công suất khai thác, bổ sung cát kết hợp với điều chỉnh giải pháp kỹ thuật để rút ngắn thời gian gia tải chờ lún, tiến độ thi công sẽ bị ảnh hưởng nghiêm trọng, tiềm ẩn nguy cơ không hoàn thành.

Trên cơ sở phân tích, Chính phủ kiến nghị Quốc hội có ý kiến với Đoàn đại biểu Quốc hội các địa phương có dự án đi qua quan tâm, hỗ trợ, đề nghị UBND các tỉnh, thành phố tập trung giải quyết dứt điểm các vướng mắc, chủ động, linh hoạt trong đề xuất nguồn vật liệu đắp nền để đáp ứng tiến độ thi công các dự án thành phần.

Theo lãnh đạo ban điều hành một nhà thầu tại dự án, với đặc thù toàn bộ các dự án thành phần đều đi qua khu vực đất yếu, cần đắp gia tải, chờ lún trong khoảng 10 - 12 tháng, nguồn vật liệu đắp (cát xử lý đất yếu và đắp nền đường) là yếu tố ảnh hưởng trực tiếp đến tiến độ hoàn thành.

Nam Khánh

Nguồn Xây Dựng: https://baoxaydung.vn/thieu-ca-trieu-met-khoi-cat-cao-toc-chau-doc-can-tho-soc-trang-kho-but-toc-19225091114162069.htm
Zalo