Thị trường vàng có chênh lệch giá cao, rủi ro đổ lên vai người dân

Thời gian qua, thị trường vàng trong nước chứng kiến khoảng cách chênh lệch giữa vàng miếng SJC và giá vàng thế giới liên tục duy trì ở mức cao khiến không ít nhà đầu tư thua lỗ nặng.

Trong khi đó, cơ chế độc quyền sản xuất – phân phối vàng miếng SJC theo Nghị định 24/2012 đang bộc lộ nhiều bất cập như giá trong nước lệch “cao bất thường” so với giá vàng thế giới, tiềm ẩn nguy cơ buôn lậu, lãng phí hàng chục tỉ USD vàng trong dân. Nhiều chuyên gia cho rằng đã đến lúc cần một chính sách quản lý vàng minh bạch, thị trường hơn để giải phóng nguồn lực quý giá này.

Cơ chế độc quyền khiến người dân chịu thiệt

Đầu giờ chiều nay, ngày 4-6, giá vàng miếng SJC được bán ra ở mức 117,2 triệu đồng/lượng, mua vào 114,9 triệu đồng/lượng, không thay đổi so với chốt phiên chiều qua. Tuy nhiên, so với mức giá cao kỷ lục trong giai đoạn cuối tháng 4, đầu tháng 5, giờ đây những người “đu đỉnh” đã lỗ khoảng 7 triệu đồng.

Cùng thời điểm này, nếu ai chọn cách mua vàng miếng SJC trên thị trường tự do thì giờ đây khoản đầu tư đó đã “bốc hơi” tới 10 triệu đồng/lượng.

Cùng với diễn biến giá, chênh lệch giữa giá mua – bán cũng được thu hẹp đáng kể. Thay vì khoảng cách này duy trì một thời gian dài ở mức 2,5 – 3 triệu đồng/lượng, đến nay độ vênh này đã rút ngắn xuống còn 2,3 triệu đồng/lượng. Thậm chí tại một số doanh nghiệp, chênh lệch giá mua – bán vàng miếng SJC hiện chỉ còn 1,5 triệu đồng/lượng.

So với giá vàng thế giới quy đổi, giá vàng miếng SJC hiện chỉ cao hơn giá vàng thế giới khoảng 11 triệu đồng/lượng. Trong khi đó, vào đầu tháng 5 vừa qua có thời điểm khoảng cách giá vàng giữa hai thị trường nới rộng lên tới 18 triệu đồng. Giá vàng thế giới đang dao động quanh ngưỡng 3.354 USD/ounce, tương đương 106 triệu đồng/lượng.

Một số chuyên gia kinh tế cho rằng sự chênh lệch giá vàng trong nước với quốc tế cao không chỉ khiến người dân phải mua vàng với giá “ảo”, lợi ích không đến tay người dân mà còn gây ra một loạt hệ lụy: Mất cơ hội đầu tư hợp lý bởi người dân giữ vàng như kênh trú ẩn tài sản nhưng không được hưởng giá trị thật của tài sản do biên độ giá bị bóp méo bởi cơ chế độc quyền.

 Hơn 10 năm trở lại đây, thị trường vàng trong nước không được nhập vàng nguyên liệu. Ảnh: T.L

Hơn 10 năm trở lại đây, thị trường vàng trong nước không được nhập vàng nguyên liệu. Ảnh: T.L

Chưa kể tăng nguy cơ buôn lậu và chảy máu ngoại tệ do chênh lệch giá cao, nhiều đường dây buôn lậu vàng từ biên giới Campuchia, Lào... hoạt động mạnh, gây áp lực lên cán cân thương mại và dự trữ ngoại hối quốc gia.

Nguồn lực cho nền kinh tế ước tính từ 500–600 tấn vàng vật chất đang nằm trong dân, tương đương 45-50 tỉ USD nhưng không được huy động vào sản xuất – đầu tư do thiếu kênh hợp pháp, minh bạch và an toàn.

Nghị định 24/2012/NĐ-CP từng phát huy tác dụng ngắn hạn khi thị trường bất ổn, nhưng sau hơn một thập kỷ, chính sách này ngày càng bộc lộ sự cứng nhắc, lạc hậu, không theo kịp biến động của thị trường và thông lệ quốc tế.

Hiện nay, vẫn thiếu sàn giao dịch vàng tập trung, thị trường vàng vẫn hoạt động manh mún, phân tán, thiếu cơ chế điều tiết theo tín hiệu cung – cầu...

Do đó, thị trường vàng không thể tiếp tục bị điều hành bằng những công cụ hành chính cứng nhắc như giai đoạn vừa qua. Chính sách siết chặt cung, độc quyền sản xuất vàng miếng, hạn chế nhập khẩu vàng... đã từng giúp ổn định tỉ giá, chống đô la hóa nhưng đang tạo ra những hệ lụy nghiêm trọng.

Trong đó có thể kể đến như chênh lệch giá vàng trong nước – thế giới tăng cao với mức kỷ lục từ trước đến nay gây méo mó thị trường, gia tăng đầu cơ, buôn lậu. Người dân thiệt hại không được tiếp cận giá thị trường, phải mua vàng “đắt phi lý”, mất niềm tin vào công cụ tích sản hợp pháp.

Những giải pháp mở khóa thị trường vàng

PGS.TS Ngô Trí Long, chuyên gia kinh tế đánh giá: "So sánh với nhiều nước trên thế giới, Việt Nam tụt hậu trong việc quản lý vàng. Trong khi nhiều nước đã thành lập sàn giao dịch vàng quốc gia (Trung Quốc, Ấn Độ, Thái Lan), hoặc khuyến khích hình thành quỹ đầu tư vàng (ETF vàng) thì Việt Nam vẫn duy trì cơ chế độc quyền thủ công.

Singapore thành lập sàn giao dịch vàng quốc tế Singapore Gold Exchange (SGE) từ năm 2014, thu hút lượng lớn nhà đầu tư nước ngoài và nâng cao khả năng định giá nội địa.

Ấn Độ huy động vàng từ dân thông qua chương trình “Gold Monetisation Scheme”, trả lãi cho người gửi bằng vàng và tái sử dụng vàng đó cho nền công nghiệp trang sức. Thái Lan có hơn 200 doanh nghiệp kinh doanh vàng, giá được niêm yết theo chuẩn thị trường thế giới, giúp giá nội địa bám sát thế giới.

Việc không tách bạch giữa chức năng quản lý và chức năng kinh doanh đối với cơ quan nhà nước trong lĩnh vực vàng đã tạo ra tình trạng nghẽn tắc thể chế, bóp méo tín hiệu thị trường, gây thiệt hại lớn cho người dân và nền kinh tế.

Đã đến lúc Việt Nam cần một chính sách quản lý vàng mang tính thị trường, có kỷ cương, phù hợp với thông lệ quốc tế, qua đó giải phóng nguồn lực vàng trị giá hàng vài chục tỉ USD đang “nằm chết” trong dân.

 Giá vàng miếng SJC đang cao hơn giá vàng thế giới khoảng 11 triệu đồng/lượng. Ảnh:T.L

Giá vàng miếng SJC đang cao hơn giá vàng thế giới khoảng 11 triệu đồng/lượng. Ảnh:T.L

Chính sách kiến tạo: 9 nhóm nhiệm vụ đổi mới trọng tâm

Theo chuyên gia kinh tế PGS.TS Ngô Trí Long, cần khẩn trương triển khai 9 nhóm giải pháp chính sách then chốt, vừa đảm bảo nguyên tắc thị trường vừa kiểm soát rủi ro vĩ mô.

Thứ nhất, là sửa đổi Nghị định 24/2012/NĐ-CP. Hiện nay, Chính phủ đang giao Bộ Tài chính và Ngân hàng Nhà nước xây dựng đề xuất sửa đổi theo hướng thị trường hóa có kiểm soát. Mục tiêu kết nối thị trường vàng trong nước với thế giới, hạn chế chênh lệch giá kéo dài gây mất ổn định.

Thứ hai, xóa bỏ độc quyền vàng miếng có điều kiện. Mở rộng sản xuất vàng miếng cho các doanh nghiệp đạt chuẩn (theo cơ chế cấp phép minh bạch). Giúp tăng cung, giảm thế độc quyền, hạ giá vàng nội địa và thúc đẩy cạnh tranh lành mạnh.

Thứ ba, mở quyền nhập khẩu vàng có kiểm soát. Cho phép đấu giá hạn ngạch nhập khẩu vàng đối với tổ chức tín dụng, doanh nghiệp đủ năng lực tài chính. Điều này giúp tăng cung, giảm áp lực giá trong nước, hạn chế buôn lậu vàng qua đường tiểu ngạch.

Thứ tư, khuyến khích vàng trang sức, chế tác và xuất khẩu. Tính đến cuối năm 2024, Việt Nam sản xuất khoảng 22 triệu sản phẩm vàng trang sức, chủ yếu tiêu thụ nội địa. Việc miễn thuế xuất khẩu vàng trang sức sẽ giúp khai thác giá trị gia tăng từ vàng, thay vì để “vàng nằm chết”.

Thứ năm, phát triển kênh đầu tư thay thế. Thí điểm Quỹ đầu tư vàng, chứng chỉ vàng, gửi vàng qua quỹ đầu tư vàng. Mô hình quỹ giúp thu hút khoảng 500 – 600 tấn vàng đang tích trữ trong dân.

Thứ sáu, tăng cường phối hợp quản lý, chống buôn lậu. Lập Tổ công tác liên ngành giữa Ngân hàng Nhà nước – Bộ Tài chính – Bộ Công an – Hải quan. Thực thi cơ chế giám sát nhập – xuất – lưu thông vàng đồng bộ từ biên giới tới thị trường.

Thứ 7, phát huy vai trò Hiệp hội Kinh doanh vàng Việt Nam. Là kênh phản biện, hỗ trợ doanh nghiệp, phối hợp ban hành bộ quy chuẩn chất lượng, mã vạch truy xuất cho sản phẩm vàng.

Thứ tám, ổn định kinh tế vĩ mô, giữ vững giá trị tiền đồng. Năm 2024, CPI bình quân ước tăng 3,3%; tỷ giá VND/USD tương đối ổn định. Tăng niềm tin vào tiền đồng chính là cách bền vững để giảm nhu cầu tích trữ vàng.

Thứ 9, xây dựng hệ thống thông tin – dữ liệu quốc gia về vàng. Kết nối thông tin các giao dịch vàng vật chất, truy xuất nguồn gốc, hướng tới thu thuế giao dịch và điều tiết minh bạch.

Bên cạnh đó, PGS.TS Ngô Trí Long cũng đưa ra 3 giải pháp nhằm phát triển thị trường vàng trong dài hạn.

Thứ nhất, sớm thành lập Sở giao dịch vàng quốc gia, có thể tích hợp trong Trung tâm tài chính quốc tế TP.HCM nhằm tập trung hóa hoạt động giao dịch, minh bạch hóa giá cả và từng bước loại bỏ thị trường “chợ đen”. Mô hình này tương tự như Sở giao dịch vàng Thượng Hải (SGE), được kỳ vọng sẽ giúp chuẩn hóa thị trường vàng trong nước theo thông lệ quốc tế.

Thứ hai, áp dụng chính sách thuế giao dịch vàng có chọn lọc, cụ thể là thuế lũy tiến đối với hoạt động đầu cơ ngắn hạn, trong khi miễn hoặc giảm thuế cho các khoản đầu tư tích sản dài hạn. Cách tiếp cận phân loại này vừa tạo động lực cho tích lũy bền vững, vừa góp phần hạn chế đầu cơ, làm méo mó thị trường.

Thứ ba, xóa bỏ thuế xuất khẩu vàng trang sức – hiện đang áp dụng mức thuế suất 2% đối với sản phẩm có hàm lượng vàng từ 95% trở lên. Chính sách này đang là rào cản lớn đối với doanh nghiệp trong nước. Việc bãi bỏ thuế không chỉ giúp thúc đẩy xuất khẩu, mà còn nâng cao năng lực cạnh tranh của ngành kim hoàn Việt Nam trên thị trường quốc tế.

THÙY LINH

Nguồn PLO: https://plo.vn/thi-truong-vang-co-chenh-lech-gia-cao-rui-ro-do-len-vai-nguoi-dan-post853420.html
Zalo