Thị trường lao động năng động, linh hoạt
Trong một bối cảnh thị trường lao động đang dần trở nên năng động, linh hoạt và chịu sự chi phối mạnh mẽ của công nghệ, việc các lao động chủ động định vị lại bản thân sau khi rời khu vực công là điều tất yếu.

Nhân viên Trung tâm Dịch vụ việc làm Hà Nội tư vấn việc làm cho người lao động. Ảnh Khánh Phong
Chủ động thích nghi...
Sau hơn 10 năm gắn bó với công việc tại cơ sở y tế phường của Hà Nội, chị Tạ Thị Hường (xã Bình Minh, Hà Nội) đã rời khu vực công. Vốn là người hoạt bát, nhanh nhẹn, chị Hường đăng ký học nghề và quyết định mở một cửa hàng kinh doanh nhỏ. Sẵn có mặt bằng là căn nhà mặt đường 21B được bố mẹ cho mượn, cùng với nhờ sự kiên trì, chị Hường đã dần ổn định công việc với thu nhập trung bình trên 30 triệu đồng mỗi tháng.
Trên thực tế, hầu hết các lao động sau khi rời khu vực công đều không chịu ngồi yên chờ cơ hội, mà họ đã chủ động chuyển mình để thích nghi. Một số khởi nghiệp, số khác tìm kiếm cơ hội trong khu vực tư nhân đang cần nguồn nhân lực có kinh nghiệm và kiến thức chuyên môn từ khu vực công.
Theo chị Lê Thị Ngọc (xã Dân Hòa), những người từng làm việc trong khu vực công thường có thế mạnh về kỷ luật, tác phong và mạng lưới quan hệ rộng. Do đó, khi chúng tôi ra ngoài làm bất cứ công việc gì cũng rất nhanh thích nghi, nhanh chóng bắt nhịp và đóng góp tích cực cho DN.
Các chuyên gia cho rằng, trong một bối cảnh thị trường lao động đang dần trở nên năng động, linh hoạt và chịu sự chi phối mạnh mẽ của công nghệ, việc các lao động chủ động định vị lại bản thân sau khi rời khu vực công là điều tất yếu. Quá trình tinh giản bộ máy không chỉ là bài toán tổ chức nhân sự trong khu vực công mà còn là cơ hội để người lao động khám phá giới hạn mới của chính mình.
Từ một vị trí công chức chuyển sang lĩnh vực kinh doanh tự do, nhiều người đã chứng minh rằng rời khỏi khu vực công không đồng nghĩa với thất nghiệp. Với quyết tâm thay đổi, sự hỗ trợ từ các cơ quan chức năng và khả năng thích ứng linh hoạt, hành trình sau khi rời khu vực công có thể là điểm khởi đầu cho một cuộc sống chủ động hơn và cũng nhiều thử thách hơn. Phó Giám đốc Trung tâm Dịch vụ việc làm Hà Nội Vũ Quang Thành cho biết, Hà Nội đang đánh giá nhu cầu, nguyện vọng tìm việc làm của lực lượng lao động rời khu vực công, đồng thời mở rộng địa bàn, tăng cường kết nối với DN để tạo ra thật nhiều cơ hội phù hợp.
Ngoài hoạt động kết nối việc làm, các chương trình đào tạo lại, nâng cao tay nghề và hỗ trợ vốn vay cũng đang được triển khai nhằm tiếp sức cho người lao động tái khởi nghiệp. Những ai chưa thể thích ứng ngay với môi trường mới được khuyến khích tham gia các lớp học nghề, nâng cấp kỹ năng hoặc chuyển đổi nghề nghiệp.
Nhu cầu sử dụng lao động có trình độ chuyên môn ngày càng cao
Trong tháng 7/2025, số người có quyết định hưởng trợ cấp thất nghiệp trong tháng tiếp tục tăng so với các tháng trước đó. Điều đó, phản ánh thị trường lao động còn chịu nhiều biến động và nguy cơ mất việc của người lao động vẫn ở mức cao. Theo đó, trong tháng 7/2025, số người có quyết định hưởng trợ cấp thất nghiệp là 8.893 người, tăng khoảng 9,6% so với tháng 6/2025. Khảo sát, thu thập thông tin trên 7.136 hồ sơ đề nghị hưởng trợ cấp thất nghiệp do Trung tâm Dịch vụ việc làm Hà Nội thực hiện cho thấy, nhóm lao động từ 25 - 34 tuổi và từ 35 - 54 tuổi vẫn chiếm đa số trong số lao động nộp hồ sơ đề nghị hưởng trợ cấp thất nghiệp.
Cụ thể, nhóm tuổi 25 - 34 chiếm 46,85%, giảm nhẹ so với tháng trước (47,4%) nhưng vẫn là nhóm chiếm tỷ lệ cao nhất. Nhóm tuổi 35 - 54 chiếm 40,95% trong số lao động nộp hồ sơ đề nghị hưởng trợ cấp thất nghiệp, tăng so với tháng trước (40,28%), cho thấy tình trạng thất nghiệp ở nhóm trung niên ít biến động.
Nhóm lao động không có trình độ chuyên môn kỹ thuật đề nghị hưởng trợ cấp thất nghiệp tiếp tục chiếm tỷ trọng lớn nhất tới 59,37%, điều này phản ánh rõ nhu cầu sử dụng lao động có trình độ chuyên môn ngày càng cao trong các DN.
Nhóm lao động có trình độ đại học trở lên đề nghị hưởng trợ cấp thất nghiệp tăng nhẹ là 32,91% trong tháng 7/2025 (tháng 6/2025 là 32,6%). Tuy mức tăng không đáng kể nhưng điều này cho thấy áp lực đối với nhóm lao động có bằng cấp vẫn chưa có dấu hiệu hạ nhiệt.
Kết quả khảo sát, thu thập thông tin hồ sơ đề nghị hưởng trợ cấp thất nghiệp cũng cho thấy, nguyên nhân thất nghiệp do nhóm người lao động đơn phương chấm dứt hợp đồng là 29,91%; do hết hạn hợp đồng hoặc hai bên thỏa thuận chiếm 20,67%. Nhóm mất việc do nguyên nhân khác chiếm tỷ lệ cao nhất là 44,11%...
Trong số những ngành có nguy cơ thất nghiệp cao dựa trên tỷ trọng lao động hưởng bảo hiểm thất nghiệp, đáng chú ý ngành tài chính, ngân hàng, kế toán, kiểm toán có tỷ lệ thất nghiệp tăng từ 23,62% (tháng 6/2025) lên 42,03% trong tháng 7/2025. Tỷ lệ tăng này cho thấy quá trình tái cấu trúc nhân sự của nhóm ngành này đang diễn ra mạnh mẽ hơn và có thể đã bước vào một giai đoạn căng thẳng mới.
Sau giai đoạn biến động mạnh, nhóm ngành công nghệ thông tin - viễn thông có tỷ lệ thất nghiệp giảm còn 28,30% trong tháng 7/2025 so với 47,24% trong tháng 6/2025. Tỷ lệ này cho thấy lĩnh vực này đang dần ổn định trở lại. Ngành dệt may, giày da, dệt nhuộm có tỷ lệ thất nghiệp tiếp tục giảm, chỉ còn 5,59% đồng nghĩa với duy trì sự ổn định trong hoạt động của các DN trong lĩnh vực xuất khẩu chủ lực này.
Từ đầu năm 2025 đến nay, Việt Nam đã thực hiện rất nhiều nhiệm vụ mang tính đột phá, chiến lược, cơ bản cho cả trước mắt và lâu dài để bước vào Kỷ nguyên vươn mình của dân tộc. Trong 6 tháng đầu năm 2025, kinh tế Việt Nam đã đạt xấp xỉ mức tăng trưởng đề ra (7,52%). Điều này đã phần nào phản ánh sự phục hồi và phát triển của thị trường lao động Việt Nam thời gian qua. Tuy nhiên, để đạt mục tiêu tăng trưởng GDP cả năm 2025 từ 8% trở lên, thị trường lao động cần phải vượt qua những thách thức về chất lượng nguồn nhân lực cũng như giảm tỷ lệ lao động phi chính thức.