Thị trường chứng khoán Việt Nam có đang tăng trưởng nóng?
Các chỉ số mang tính kỹ thuật về dòng tiền chưa cho thấy dấu hiệu tăng trưởng quá nóng nhưng nhiều khả năng VN-Index sẽ sớm phải đối mặt với biến động lớn trong ngắn hạn do áp lực chốt lời gia tăng.

Thị trường chứng khoán - thị trường của kỳ vọng. Ảnh: LÊ VŨ
P/E dự phóng về mức trung bình 10 năm
Kể từ đầu năm 2025 đến nay, hầu hết các thị trường chứng khoán (TTCK) trên thế giới đều bước vào giai đoạn tăng trưởng mạnh, thậm chí nhiều thị trường còn vượt đỉnh cũ. Điều này không chỉ xảy ra với nhóm thị trường phát triển, thị trường mới nổi, mà còn diễn ra ở nhóm các thị trường cận biên (frontier market). Trong bối cảnh đó, có thể nói, việc chỉ số VN-Index của TTCK Việt Nam tăng hơn 30% trong tám tháng đầu năm 2025 không phải là một trường hợp quá bất thường!
Ở góc nhìn định giá, theo báo cáo mới đây của SSI Research, chỉ số P/E (giá thị trường/thu nhập mỗi cổ phiếu) của TTCK Việt Nam hiện vẫn ở mức tương đối hấp dẫn. Cụ thể, theo Bloomberg, chỉ số P/E dự phóng (P/E forward) của thị trường hiện ở mức khoảng 13,2 lần, tương đương mức trung bình của khu vực cũng như trung bình lịch sử của VN-Index trong 10 năm trở lại đây, đồng thời thấp hơn nhiều so với mức cao 15-17 lần đã đạt được trong giai đoạn 2017-2018 và 2020-2021. Còn nếu so với chỉ số MSCI Emerging tại các thị trường mới nổi, TTCK Việt Nam đang có mức định giá thấp hơn hoặc tương đương, mặc dù triển vọng tăng trưởng lợi nhuận và chỉ số ROE (lợi nhuận/vốn chủ sở hữu) cao hơn.
Thị trường có tăng, có giảm, nhưng TTCK là thị trường của kỳ vọng, và với một TTCK thuộc nhóm mới nổi/cận biên như Việt Nam, tăng trưởng kinh tế là yếu tố quan trọng nhất.
Xét về dài hạn, dựa trên giả định lợi nhuận thị trường tăng khoảng trên 15% trong năm 2026 thì chỉ số P/E forward 2026 của TTCK Việt Nam sẽ ở mức khoảng 11,4 lần, thấp hơn so với trung bình quá khứ. Về đánh giá mức độ phản ánh vào giá từ khả năng nâng hạng thị trường, nhà đầu tư có thể so sánh với diễn biến tại TTCK Trung Quốc, sau khi nước này được MSCI (tháng 6-2017) và FTSE Rusell (tháng 9-2018) nâng hạng lên nhóm các thị trường mới nổi. Trong năm 2017, phản ứng với thông tin nâng hạng, chỉ số MSCI Trung Quốc đã tăng 54% trong khi chỉ số FTSE Trung Quốc tăng 45%. Điều này mang đến kỳ vọng tích cực, giúp củng cố niềm tin của nhà đầu tư vào đà tăng của VN-Index.
Xét một tiêu chí khác là lợi suất thu nhập (earnings yield) thì so với các kênh đầu tư khác, TTCK đang mang lại mức lợi suất khoảng 7,6%, vẫn cao hơn so với kênh tiền gửi (lãi suất huy động phổ biến 5-6%) và bất động sản (lợi suất cho thuê/giá khoảng 3-4%), giúp kênh chứng khoán duy trì sức hấp dẫn nhất định. Còn nếu so với kênh đầu tư vàng thì giá vàng đã tăng trung bình 17%/năm trong năm năm qua, cao hơn mức tăng trung bình 13%/năm của VN-Index, cho thấy TTCK vẫn chưa quá nóng khi so sánh tương quan với kênh đầu tư vàng.
Hỗ trợ từ câu chuyện tăng trưởng của nền kinh tế
Ở góc nhìn vĩ mô hơn thì TTCK dường như vẫn chưa phản ánh hết câu chuyện tăng trưởng của Việt Nam. Về quy mô, nếu chọn mốc bắt đầu từ năm 2010 (khi kinh tế Việt Nam còn gặp nhiều khó khăn, và có thể xem là đang ở đáy của tăng trưởng), thì mức tăng điểm của TTCK (khoảng 3,4 lần; từ 485 điểm lên 1.630 điểm) cũng tương đương với mức độ tăng trưởng của GDP (từ 147 tỉ đô la Mỹ năm 2010 dự kiến lên trên 500 tỉ đô la Mỹ vào năm 2025).
Như vậy, mức tăng điểm hiện tại có thể nói chỉ đơn thuần phản ánh mức tăng trưởng chung của nền kinh tế trong quá khứ, và chưa phản ánh được các câu chuyện tăng trưởng sắp tới của Việt Nam, như GDP tăng trưởng có thể đạt hai con số hay kết quả từ công cuộc cải cách toàn diện thể chế và nền kinh tế, với trọng tâm phát triển kinh tế tư nhân. Và với việc TTCK là thị trường của kỳ vọng, những gì sắp xảy ra sẽ quan trọng hơn những gì đã xảy ra. Về con số, tỷ lệ vốn hóa toàn thị trường/GDP tính đến hết ngày 15-8-2025 ở mức 73%, thấp hơn so với mức 85-93% trong giai đoạn 2020-2021 và cũng thấp hơn tỷ lệ này của một số quốc gia khác trong khu vực như Thái Lan, Malaysia.
Ở góc độ thị trường, thông thường có thể quan sát mức độ tăng nóng của VN-Index thông qua thanh khoản. Giá trị giao dịch của thị trường thời gian qua tăng mạnh do nhiều nguyên nhân, bên cạnh mặt bằng lãi suất thấp, thì việc triển khai thành công hệ thống KRX cũng đã giúp giảm độ trễ, tăng khả năng tiếp nhận lệnh của sàn giao dịch.
Về dư nợ cho vay ký quỹ tại thời điểm cuối quí 2-2025, tổng dư nợ margin tại các công ty chứng khoán ước đạt khoảng 300.000 tỉ đồng (tương đương 11,5 tỉ đô la Mỹ), tăng 34% so với cùng kỳ năm trước và tăng 22,3% so với đầu năm 2025. Theo đó, tính đến cuối quí 2-2025, tỷ lệ cho vay ký quỹ trên vốn chủ sở hữu của các công ty chứng khoán ước vượt mốc 100%, nhưng vẫn đang thấp hơn so với mức 127% khi chỉ số VN-Index vượt mốc 1.500 điểm trong quí 4-2021 và mức trần quy định 200%. Trong thời gian tới, việc một số công ty chứng khoán có kế hoạch tăng vốn mạnh sẽ giúp giảm tỷ lệ tổng dư nợ cho vay ký quỹ/tổng vốn chủ sở hữu các công ty chứng khoán trên toàn thị trường.
Về tổng thể, theo SSI Research, mức tăng điểm của thị trường đã phản ánh những biến chuyển của nền kinh tế trong 15 năm qua. Mức độ định giá của TTCK Việt Nam hiện chỉ ở mức trung bình năm năm, và tương đương (trong một số trường hợp là thấp hơn) các thị trường có trình độ phát triển tương tự Việt Nam. Các chỉ số mang tính kỹ thuật về dòng tiền cũng chưa cho thấy dấu hiệu tăng trưởng quá nóng. Tuy nhiên, với việc chỉ số và thanh khoản chung của thị trường đã hồi phục mạnh mẽ trong bốn tháng vừa qua, nhiều khả năng thị trường sẽ sớm phải đối mặt với biến động lớn trong ngắn hạn do áp lực chốt lời gia tăng.
Thị trường có tăng, có giảm, nhưng TTCK là thị trường của kỳ vọng, và với một TTCK thuộc nhóm mới nổi/cận biên như Việt Nam, tăng trưởng kinh tế là yếu tố quan trọng nhất. Với mục tiêu tăng trưởng hai con số trong chu kỳ năm năm tới, đi cùng với công cuộc cải cách toàn diện về thể chế, trong đó tập trung nhiều vào phát triển khu vực kinh tế tư nhân, cơ hội để đầu tư vào các doanh nghiệp có tiềm năng tăng trưởng ở mức giá hợp lý sẽ luôn là lựa chọn hàng đầu đối với các nhà đầu tư trong và ngoài nước.