Thi ca lặng lẽ kiếm tìm tri âm

Trong kỷ nguyên số, sự bùng nổ thông tin đã mang đến nhiều chọn lựa cho công chúng về mọi loại hình nghệ thuật. Tâm lý hưởng thụ khiến xu hướng giải trí lấn át xu hướng thưởng thức. Tâm lý tiêu dùng khiến kèn trống ồn ào khỏa lấp tư duy sâu lắng. Thi ca bỗng dưng trở thành một vấn nạn tiếp nhận. Người làm thơ nhiều không kể xiết mà người đọc thơ ít không thể tả. Vậy thì câu thơ bơ vơ đi tìm tri âm phía nào chưa nỡ khép cửa tâm hồn?

Không ai phủ nhận Việt Nam là một dân tộc yêu thi ca. Bằng chứng ư, một kho tàng ca dao khổng lồ đồng hành nếp ăn, nếp ở của cộng đồng suốt ngàn năm qua. Thế kỷ 15 có tổ chức Tao Đàn của vua Lê Thánh Tông ở miền Bắc thì thế kỷ 18 có tổ chức Chiêu Anh Các ở miền Nam. Thơ theo chân người cày cấy, thơ theo chân người đánh giặc, thơ theo chân người mở cõi, thơ theo chân người giữ nước. Thơ trên đồng ruộng, thơ trong chiến hào, thơ vào tổ ấm. Nếu không có thơ, đời sống tinh thần người Việt Nam chắc chắn sẽ nghèo nàn lắm, sẽ tẻ nhạt lắm.

Đường Thơ tại lễ hội Nguyên Tiêu thành phố Hồ Chí Minh.

Đường Thơ tại lễ hội Nguyên Tiêu thành phố Hồ Chí Minh.

Thế nhưng, đó là câu chuyện thi ca ngày xửa ngày xưa. Bây giờ trí tuệ nhân tạo AI có thể làm thơ, thì mọi thứ có vẻ đã thay đổi rất nhiều. Thơ dường như bị rẻ rúng, thơ dường như bị quên lãng. Thơ bỗng dưng giông giống sản phẩm thời trang diêm dúa được rao bán hạ giá bên lề cuộc sống. Thỉnh thoảng người ta ồn ào về thơ như một cơn hiếu kỳ hoặc như một trận mỉa mai. Người ta to tiếng thóa mạ thơ, người ta phẫn nộ đay nghiến thơ, mà cơn cớ cốt lỗi vì người ta chưa biết cách đọc thơ như một món quà đích thực dành cho trái tim biết rung động yêu thương.

Câu thơ bơ vơ giữa muôn chiều tiếp nhận, do hai nguyên nhân. Thứ nhất từ người viết. Thứ hai từ người đọc. Nếu cả người viết lẫn người đọc đều cảm thấy mình không hề có lỗi gì, thì tương lai của thơ càng ngày càng mịt mù.

Mỗi năm nước ta có hàng ngàn tập thơ được in ra, và cũng có hàng ngàn bài giới thiệu ngọt ngào ngôn từ quảng cáo. So với dân số hơn trăm triệu người, thì số lượng tập thơ ấy hoàn toàn không nhiều. Chỉ tiếc, hầu hết các tập thơ in ra đều chủ yếu phục vụ mơ ước được xưng danh nhà thơ của người viết, nên chẳng đọng lại gì cho người đọc.

Những tập thơ in ấn càng rực rỡ thì chất lượng càng đáng hoài nghi. Bởi lẽ, thứ na ná thơ được bao bọc mỹ miều chỉ phô diễn vần điệu du dương và sáo rỗng. Tiếng kêu số phận không thấy trong thơ. Lời đau định mệnh cũng không thấy trong thơ. Sao thế nhỉ? Rất đơn giản, người viết không chân thành với chính họ, cho nên họ thích đánh đu theo đám đông hò reo, họ chiều chuộng sự dễ dãi và họ vuốt ve sự đỏm dáng. Những câu chữ nôm na và rộn ràng cứ khoác áo thi ca mà tràn ra phố, thì độc giả qua đường cũng tỏ thái độ dửng dưng.

Người viết không coi thơ là âm vọng của cuộc đời mình. Thơ mệt nhoài lao theo những toan tính riêng tư, thơ không kịp lắng lại một điều gì để kết nối cá nhân với đồng loại. Đọc thơ, không thấy gương mặt của tác giả, không thấy buồn vui của tác giả, không thấy băn khoăn của tác giả, thì chẳng ai muốn lãng phí thời gian để đọc thơ nữa.

Có một sự thật, cũng hơi tế nhị, nhưng không thể không nhìn nhận một cách khách quan. Làng thơ Việt hôm nay thiếu vắng tính chuyên nghiệp. Nghĩa là, hiếm hoi những người gắn bó với thơ, tìm hiểu và nghiền ngẫm thơ như một công việc bắt buộc thường ngày. Nghĩa là, hiếm hoi những người chịu suy tư về dòng chảy của thơ, giá trị của thơ và nhận thức về sự dự phần của bản thân vào hành trình sáng tạo thơ. Không biết cái chung cơ bản thì không thể có cái riêng độc đáo. Làm thơ kiểu ngẫu hứng hoặc kiểu gượng ép thì phơi bày bao nhiêu xác chữ vô hồn.

Biểu hiện thiếu vắng tính chuyên nghiệp của thơ Việt còn phản ánh ở sự tách bạch hai điểm hẹn tác giả. Điểm hẹn thứ nhất là độ tuổi đôi mươi và điểm hẹn thứ hai là độ tuổi nghỉ hưu. Độ tuổi đôi mươi nhiệt huyết và đắm say, những tơ vương lãng mạn được viết hào hứng bằng cái cuồng vọng của tiểu ngư không biết mặt Long Vương nên không sợ sệt gì. Qua độ tuổi hai mươi, nhiều người tự trọng rút lui vì hiểu được năng khiếu trời cho không phù hợp trò chơi thi ca, và nhiều người có khả năng thi ca phải chấp nhận rời bỏ thi ca để lao vào con đường mưu sinh nhọc nhằn. Vì vậy, ở vạch xuất phát thi ca rất tưng bừng, nhưng số người viết cứ rơi rụng dần.

Độ tuổi nghỉ hưu thì thú vị hơn. Nhiều người lao động cả đời, khi có chút thong thả thì đột nhiên có ham muốn tìm một niềm vui sang trọng, và họ làm thơ. Khi ngoài thập niên mới thành “nhà thơ trẻ” thì vốn liếng chỉ mấy câu Kiều, vài câu thơ Nguyễn Bính hoặc Xuân Diệu, nhưng họ cũng không còn đủ kiên nhẫn để học, để đọc nữa. Họ hối hả viết cho kịp thành tác giả. Câu dài chen câu ngắn, vần lưng lấn vần chân, vẫn chưa ổn thì nhờ người chỉnh sửa và xuất bản. Nhà xuất bản chỉ khước từ những cuốn sách có nội dung nhạy cảm, chứ đâu nỡ không cấp giấy phép những cuốn sách làng nhàng nhưng chất ngất mơ ước của người viết mong góp thơ cho gió hiên nhà, cho mây viễn xứ. Thực tế ấy, muốn có thơ hay cũng khó.

Khoảng giữa độ tuổi đôi mươi và độ tuổi nghỉ hưu, thơ Việt rất ít ỏi tác giả trụ lại. Thơ bị đè dưới dự án kinh tế, thơ bị khuất sau hợp đồng tài chính. Không ai dành những năm tháng dồi dào sức lực và tinh thần cho thơ, thì thơ làm sao vươn mình và cất cánh. Ôi, nỗi ngậm ngùi “cơm áo không đùa với khách thơ”.

Người đọc thơ hiện nay cũng ít ỏi. Vì sao? Vì nhịp sống bận bịu và sự phục vụ tận tình của công nghệ thông tin, giúp công chúng thỏa mãn với cái điện thoại thông minh cung cấp các sản phẩm ngắn gọn mang tính thư giãn. Công chúng mãi cuốn vào những thông tin mới và những thông tin lạ trên mạng xã hội, không còn nhu cầu tập trung vào một thông điệp cụ thể nào, mà các chuyên gia xã hội học gọi là “hội chứng thối não”. Công chúng khoái trá những clip có dung lượng 10 giây đến 30 giây, thì không thể nào thẩm thấu được một bài thơ gửi gắm băn khoăn của tác giả.

Thơ bỏ rơi công chúng, vì người viết tách mình khỏi đời sống. Công chúng bỏ rơi thơ, vì thói quen đọc không được trang bị. Khốn nỗi, chính những người làm thơ cũng không đọc của nhau. Cứ khen vung vít “rất ấn tượng”, “rất mê đắm”, “rất ám ảnh” mà chẳng đọc kỹ lưỡng một bài thơ nào, chẳng đọc trọn vẹn một tập thơ nào.

Vậy thì thơ xứng đáng được xóa sổ chăng? Không, thời nào cũng cần thơ, dân tộc nào cũng cần thơ. Bởi lẽ, thơ luôn che chở những bất hạnh, thơ luôn an ủi những chua xót, thơ luôn đồng cảm những hắt hiu. Không có thơ thì ngôn ngữ của một xứ sở sẽ nghèo nàn hơn và thô cứng hơn. Không có thơ thì tình cảm của một cộng đồng sẽ tẻ nhạt hơn và lạnh lùng hơn. Cách nào để kéo gần khoảng cách giữa thi ca và công chúng? Đó là sự nỗ lực bền bỉ cả hai phía, sáng tạo và tiếp nhận.

Thơ khác văn xuôi ở chỗ không có chi tiết éo le hay tình huống gay cấn để dẫn dụ bạn đọc. Nhà thơ phải chắt chiu trắc ẩn riêng tư thành một ly nước đầy, và bạn đọc mang đến giọt nước khao khát của họ mà thành tri âm. Khoảnh khắc nhà thơ tìm thấy bạn đọc là khoảnh khắc giọt nước tràn ly. Cho nên, thơ viết về đổ vỡ gia đình sẽ có công chúng là những người từng nếm chịu mất mát thân nhân, thơ viết về thế sự ngổn ngang sẽ có công chúng là những người âu lo thị phi giăng bẫy tương lai. Mỗi nhà thơ chọn một sở trường và khai thác tận cùng sở trường ấy, thì bạn đọc của họ sẽ xuất hiện.

Mặt khác, để có công chúng thơ thì không thể không bắt đầu từ môi trường giáo dục. Học sinh nếu được vun đắp những ý niệm tinh tế về thi ca, thì sẽ là “khách hàng thông minh” của thơ. Không phải ai cũng biết cách đọc một bài thơ, nếu không được hướng dẫn, không được cổ vũ sự khám phá nghệ thuật thi ca từ thời cắp sách hồn nhiên.

Đặc biệt, việc cung cấp ngữ liệu dạy văn và học văn rất cần cải thiện. Ví dụ, thơ viết về mẹ, chỉ cung cấp cho học sinh bậc trung học những câu thơ viết bằng khái niệm “Mẹ ru cái lẽ ở đời/ sữa nuôi phần xác hát nuôi phần hồn/ bà ru mẹ, mẹ ru con/ liệu mai sau các con còn nhớ chăng”, mà chưa cung cấp những câu thơ viết bằng hình ảnh “mẹ thắp đèn lên xem hai chiếc đồng hồ/ sợ con đi muộn mất chuyến tàu sáng/ tựa cửa mẹ nhìn mênh mông tháng nắng/ sợ con bỏ quên chiếc mũ trên đường đi” và cũng chưa cung cấp những câu thơ viết bằng cảm giác “hoa sen không định thơm/ không định thơm thì mới thơm như thế/ rất tự nhiên là ta nhớ đến mẹ/ mẹ quá xa rồi/ để ta thành con cái của làn hương”.

Lê Thiếu Nhơn

Nguồn VNCA: https://vnca.cand.com.vn/doi-song-van-hoa/thi-ca-lang-le-kiem-tim-tri-am-i781128/
Zalo