Thể chế và phát triển Tất cả phải được thể chế hóa vì mục tiêu phát triển
Thời kỳ mới đòi hỏi phát triển vừa tuần tự vừa nhảy vọt, vừa tiến lên vừa giật lùi, thậm chí cả những bước phát triển dích dắc xen lẫn cả những bước lùi biện chứng tạm thời.
Tiếp theo kỳ trước
Ba là: Đổi mới thể chế nhằm đổi mới phương thức phát triển.
Càng về cuối thập kỷ thứ hai thế kỷ XXI, càng thách thức về sự phát triển rút ngắn, thậm chí là phát triển nhảy vọt. Thời kỳ mới đòi hỏi phát triển vừa tuần tự vừa nhảy vọt, vừa tiến lên vừa giật lùi, thậm chí cả những bước phát triển dích dắc xen lẫn cả những bước lùi biện chứng tạm thời... Trong cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư, nó đang mở ra sự rút ngắn về thời hạn phát triển, về trật tự phát triển, về bước đi phát triển, về nấc thang phát triển, về sự phát triển liên tục trong đứt đoạn, về sự kết hợp biện chứng các phương thức phát triển rút ngắn… và chúng ta phải nắm lấy và dũng cảm thực thi.
Trên lộ trình mới, Việt Nam vừa phát triển tuần tự vừa kết hợp phát triển rút ngắn và rằng, vừa chọn đột phá bằng những bước nhảy vọt biện chứng, kiến tạo hệ thống thể chế tương dung với xung lực là cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư! Không thể không coi công việc phát triển khoa học công nghệ là động lực đột phá đón đợi thời cơ, đi thẳng tới hiện đại. Không có động lực này không thể có sự phát triển rút ngắn thành công nào như mong đợi, hiện nay và tương lai!
Đổi mới quyết không phải là sự phát triển khép kín, cục bộ. Vì vậy, càng đổi mới càng hội nhập và hợp tác quốc tế phải là động lực trọng yếu nhằm tiếp biến và thâu hóa tinh hoa nhân loại phục vụ cho sự phát triển đất nước văn minh và hiện đại.
Phát triển chính là sự ổn định, là sự ổn định ở đẳng cấp cao hơn, để phát triển. Đây phải là một phương diện của phương thức phát triển rút ngắn mới. Phát triển toàn diện, đồng bộ và tốc độ nhưng phải cân bằng, hài hòa và hiệu quả. Thận trọng, chắc chắn nhưng không rụt rè, trì trệ. Đột phá, sáng tạo nhưng không manh động, phiêu lưu. Thực tế nhưng không thực dụng.
Tất cả phải được thể chế hóa vì mục tiêu phát triển.
Bốn là: Đổi mới thể chế nhằm đổi mới cơ chế vận hành phát triển kinh tế xã hội tổng thể.
Tương lai không phải bao giờ cũng là đường kéo dài đơn thuần của quá khứ và hiện tại, càng không phải là một cuộc diễu binh. Kinh nghiệm cũng như vậy.
Sự phát triển xưa nay cho thấy, không chỉ là con đường thẳng tắp mà còn bao hàm cả những đường gấp khúc, không chỉ là bước tiến lên tuần tự mà còn bao hàm cả những bước đứt đoạn, không chỉ có nhảy vọt mà còn cần cả những thời khắc ngưng đọng sách lược, thậm chí cả những bước giật lùi biện chứng, tạm thời…
Đó là nghệ thuật phát triển rút ngắn mà hiện thời cần lựa chọn một cách quyền biến, thông qua hệ thể chế tương dung. Do đó, việc đổi mới và kiến tạo thể chế, hơn hết bao giờ, rất cần và đòi hỏi tầm nhìn chiến lược, tính khoa học, sự phù hợp và sự dũng cảm!
Xét tổng thể, thế và lực mới của đất nước một phần quyết định sẽ được giải phóng và phát huy bằng và thông qua hệ thể chế hợp thành cơ chế tổng thể vận hành nền chính trị, kinh tế, xã hội… toàn diện và thống nhất. Do đó, hạt nhân trung tâm của sự đột phá cải cách thể chế phải nhằm kiểm soát quyền lực tổng thể và thống nhất từ chính trị, kinh tế tới văn hóa, xã hội… một cách dân chủ và kỷ cương; mặt khác, đồng thời bảo đảm đổi mới kiên định, sáng tạo nhằm giải phóng, tự giải phóng các năng lực và nguồn lực phát triển một cách độc lập và phù hợp, thông qua hệ thống quy định, chính sách và pháp luật thống nhất và đồng bộ.
Đó chính là tầm nhìn của sự đột phá của đột phá kiến tạo thể chế hiện nay và tương lai.
Vì vậy, mục đích của đột phá cải cách thể chế phải bảo vệ vô điều kiện và phát triển cao nhất lợi ích quốc gia dân tộc, trực tiếp là lợi ích tối cao của nhân dân, trong cuộc hội nhập toàn cầu.
Nói đến thể chế, trước hết và trung tâm là nói đến vai trò của Nhà nước trong và đối với sự phát triển của đất nước hiện nay, thông qua các việc chế định và định chế các cơ chế, chính sách vĩ mô, đòn bẩy và hệ thống pháp luật đối với việc quản trị quốc gia, theo chủ kiến của nhà nước, trước hết và trực tiếp là kiến tạo hệ thống pháp luật và công cụ quản lý nhà nước. Nói xác đáng, đó chính là giải quyết trực tiếp mối quan hệ giữa nhà nước - thị trường - xã hội, xét ở mọi chiều cạnh từ kinh tế tới chính trị, văn hóa, đối ngoại, an ninh - quốc phòng và hội nhập quốc tế đối với tất cả các lĩnh vực kinh tế hay đối với tất cả các phương diện nào khác hoạt động trên đất nước bảo đảm phù hợp với luật pháp và thông lệ quốc tế trên tầm tổng thể, bằng bộ thể chế hợp thành cơ chế vận hành Đảng lãnh đạo - Nhà nước quản lý - Nhân dân làm chủ tương hợp với sự tập trung cao độ và phù hợp trên cả ba phương diện: pháp luật, đạo đức và tâm lý.
Xét cho cùng, chính là nắm lấy và không ngừng đổi mới hệ thể chế và chúng ta từng bước thành công! Và đây là động lực để giữ vững sự ổn định, từng bước đổi mới chính trị, phát triển kinh tế xã hội và chủ động hội nhập quốc tế. Và, chủ động tiếp tục đổi mới toàn diện, đồng bộ một cách độc lập và sáng tạo.
Từ yêu cầu mới, cần thiết phải khẳng định rằng, phương châm hành động đổi mới kiến tạo và hoàn thiện thể chế là chuyển mạnh việc lãnh đạo, quản trị và phát triển kinh tế, xã hội từ bằng hệ quy định, bằng hệ thống pháp luật sang của quy định, của pháp luật một cách công khai, minh bạch, liên thông, nghiêm minh và thống nhất (từ trong Đảng tới Nhà nước và toàn xã hội) với thượng tôn kỷ luật và pháp luật bảo đảm tương dung với đạo lý dân tộc và phù hợp với pháp lý quốc tế. Nghĩa là phải chuyển từ pháp trị và đức trị sang pháp quyền và dân chủ. Bất cứ sự chia cắt, đặc quyền, thậm chí cát cứ, khép kín dù ở mức độ nào của thể chế, sự “khoanh vùng”, thực thi theo “đẳng cấp” nào, dù chỉ là tâm lý, ngược với đạo lý, trái với pháp luật quốc tế… trong việc kiến tạo thể chế, đều là “man rợ”, nhất định dẫn tới đổ vỡ và thất bại không tránh khỏi.
Đó chính là tầm nhìn, là phương châm hành động của sự đột phá kiến tạo và phát triển thể chế hiện nay và hoàn thiện cơ chế vận hành kinh tế xã hội tương lai.
Trong tầm nhìn năm 2030, kế thừa kinh nghiệm thành công và chưa thành công, phải tự tìm lấy lối đi theo lộ trình, phù hợp với điều kiện cụ thể, trong phạm vi cho phép và khả năng có thể hiện thực, nhằm đẩy nhanh phương thức phát triển rút ngắn bằng và bởi thể chế phù hợp và hiệu quả.
Qua thực tiễn, vấn đề mang ý nghĩa phương pháp luận rất quan trọng tiếp tục đổi mới thể chế, rằng không thể nôn nóng, vội vàng, càng không thể chờ đợi, cầu toàn và càng không thể trông đợi vào sự may mắn dịch chuyển từ một mô hình tiên nghiệm hay sẵn có nào. Cả ba thái cực đều đem lại hậu quả tệ hại, thậm chí khôn lường như nhau.
Có thể hình dung trên 6 phương diện thể chế chủ yếu:
Thứ nhất, phát triển thể chế đổi mới chính trị.
Nếu cốt lõi của chính trị là lợi ích và quan hệ chính trị dù vi mô (cá nhân với cá nhân; cá nhân với tổ chức, đảng phái…) hay vĩ mô (giai cấp, tầng lớp với nhau; các tổ chức chính trị với nhau; quốc gia, dân tộc với nhau; quốc gia với quốc tế…) là xoay chung quanh vấn đề lợi ích, thì phải xác định đâu là cái bất biến, cái khả biến của công việc đổi mới chính trị cần phải làm, quyết không phải “cả gói” một cách thiển cận như không ít người lầm tưởng hay ảo tưởng như nhiều người tự huyễn hoặc mình.
Đổi mới chính trị thực chất là trở lại nhận thức và hành động đúng quy luật vận động của chính trị một cách tổng thể, trước hết và trực tiếp trong việc giải quyết vấn đề trung tâm là lợi ích và chung quanh lợi ích một cách tổng hòa, cụ thể từ cá nhân, giai cấp, giai tầng… tới quốc gia, dân tộc và với các nước trên tầm quốc tế mang tính thống nhất chỉnh thể và đa dạng. Nói cách khác, đổi mới chính trị là đổi mới tư duy, tìm tòi phương lược, hoạch định cơ chế, lộ trình phù hợp, giải quyết đúng đắn quy luật về các mối quan hệ chính trị nhằm mục tiêu cao cả: bảo vệ và phát triển lợi ích tối thượng của mỗi người, của từng tổ chức trong xã hội, của quốc gia dân tộc Việt Nam xã hội chủ nghĩa trong thế giới đương đại.
Hiện nay, có người hỏi: Vậy thì, gần 40 năm đổi mới vừa qua, Việt Nam chưa hay không đổi mới chính trị? Như thế có khiếm khuyết, có khập khiễng không? Và, bây giờ, liệu có chậm chạp không? Đổi mới chính trị có phải là thay đổi chế độ xã hội chủ nghĩa Việt Nam không?
Không!
Qua 79 năm, hiện nay và tương lai, đổi mới thể chế chính trị rõ ràng tuyệt đối không phải là thay đổi chế độ chính trị, thay đổi bản chất của Đảng, Nhà nước ta… Vì, “chúng ta cần một hệ thống chính trị mà quyền lực thực sự thuộc về Nhân dân, do Nhân dân và phục vụ lợi ích của Nhân dân”. Đây là cái bất biến cần kiên định nắm chắc, là nguyên tắc cần nắm lấy để chủ động hành xử trước mọi sự đổi thay của thời cuộc, của thế giới trong lộ trình đổi mới chính trị nói chung và thể chế chính trị nói riêng. Lúc này, hơn lúc nào hết, mục tiêu hành động tối cao là: Đổi mới để phát triển trong môi trường ổn định và và đến lượt nó, phát triển là thước đo của đổi mới sáng tạo và ổn định ở tầm mức cao hơn. Làm trái đi là vong thân, là hại quốc; là ngược với đổi mới và là phản động lực!
Phải khẳng định vấn đề cốt tử này để xua tan những ý kiến còn bối rối hay ngại ngần khi nói đến đổi mới chính trị, để tẩy trừ một cách thẳng thừng những ai đó đang cổ xúy cho cái gọi là “đổi mới chính trị là thay đổi chế độ chính trị”, như có ý kiến cổ xúy một cách mù mờ và hoang tưởng.
Đó chính là mục tiêu, là thước đo hiệu quả của đổi mới chính trị.
Tiến sĩ Nhị Lê
Nguyên Phó Tổng Biên tập Tạp chí Cộng sản
(Còn tiếp)