Thay đổi hành vi - Chìa khóa để giảm nghèo bền vững
Để giảm nghèo bền vững, ngoài nguồn lực tài chính, kỹ thuật, còn phụ thuộc mạnh mẽ vào việc thay đổi nhận thức, thái độ và hành vi của cộng đồng.
Giảm nghèo bền vững không chỉ là mục tiêu kinh tế - xã hội quan trọng mà còn là nhiệm vụ chính trị hàng đầu, thể hiện tinh thần "không để ai bị bỏ lại phía sau". Cùng với sự quan tâm chỉ đạo của Đảng, Nhà nước, công tác tuyên truyền đã được triển khai đồng bộ, đa dạng và sâu rộng. Qua đó góp phần nâng cao nhận thức, khơi dậy ý chí vươn lên thoát nghèo trong nhân dân, đặc biệt là đồng bào dân tộc thiểu số, tạo nên sức mạnh tổng hợp để thực hiện thành công các chương trình giảm nghèo bền vững.

Tạo sinh kế giúp hộ nghèo vươn lên. Ảnh: Chấn Hưng
Nhìn lại những thành tựu đạt được của đất nước trong 80 năm qua, nhất là 40 năm "Đổi mới", Bộ trưởng Bộ Dân tộc và Tôn giáo Đào Ngọc Dung cho rằng bạn bè quốc tế rất ngưỡng mộ sự "thay da đổi thịt" nhanh chóng của Việt Nam. Trong khi tỉ lệ nghèo của toàn cầu lại đang có xu hướng tăng thì tỉ lệ nghèo của Việt Nam giảm mạnh từ 58% năm 1993 xuống 1% năm 2025 (tỉ lệ nghèo trong đồng bào dân tộc thiểu số còn khoảng 11%). Việt Nam đã được mời tham gia sáng lập Liên minh toàn cầu chống đói nghèo...
Thứ trưởng Bộ Nông nghiệp và Môi trường Phùng Đức Tiến cũng nhấn mạnh giảm nghèo bền vững là một trong những chủ trương lớn, nhất quán và xuyên suốt của Đảng và Nhà nước được cụ thể hóa bằng Chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo bền vững giai đoạn 2021-2025 và định hướng cho giai đoạn 2026 - 2030. Đặc biệt, trong bối cảnh đất nước đang bước vào giai đoạn phát triển mới với yêu cầu cao hơn về chất lượng tăng trưởng, công bằng xã hội và phát triển bền vững, Chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo bền vững càng có ý nghĩa chiến lược lâu dài, thể hiện rõ tính ưu việt lấy con người làm trung tâm, không để ai bị bỏ lại phía sau trong tiến trình phát triển đất nước.
"Giảm nghèo bền vững phải gắn với phát triển nông nghiệp sinh thái, nông thôn hiện đại, nông dân văn minh; sử dụng hiệu quả tài nguyên, bảo vệ môi trường sống; gắn với đào tạo nghề, chuyển giao khoa học - công nghệ, mở rộng thị trường tiêu thụ nông sản... Chỉ khi người dân có sinh kế ổn định, môi trường sống an toàn, bền vững thì mục tiêu "không ai bị bỏ lại phía sau" mới thực sự trở thành hiện thực", Thứ trưởng Phùng Đức Tiến khẳng định.
Bước tiến trong công tác giảm nghèo bền vững
Theo Văn phòng Quốc gia về giảm nghèo (Bộ Nông nghiệp và Môi trường), thời gian qua, chương trình đã góp phần duy trì mức giảm tỉ lệ hộ nghèo bình quân 1-1,5% mỗi năm; trong đó tỉ lệ hộ nghèo là đồng bào dân tộc thiểu số giảm trên 3%/năm, các huyện nghèo giảm 4-5%/năm. Tính đến cuối năm 2025, cả nước đã triển khai 10.587 mô hình, dự án giảm nghèo – trong đó 9.816 mô hình nông nghiệp và 771 mô hình phi nông nghiệp – thu hút hơn 205.000 hộ dân tham gia, bao gồm hơn 110.000 hộ nghèo, 63.000 hộ cận nghèo và gần 32.000 hộ mới thoát nghèo. Những mô hình sản xuất nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao, trồng cây ăn quả đạt chuẩn VietGAP, nuôi trồng thủy sản bền vững hay chăn nuôi hữu cơ đã giúp gần 100.000 hộ dân từng bước thay đổi tập quán sản xuất, nâng cao năng suất, tiếp cận thị trường rộng mở và gia tăng thu nhập một cách rõ rệt.

Mô hình nuôi ngựa ở xã Thống Nhất, tỉnh Lạng Sơn giúp các hộ dân thoát nghèo. Ảnh: Văn Đạt
Điều đáng chú ý là các mô hình này không chỉ tạo công ăn việc làm, mà còn góp phần làm thay đổi diện mạo kinh tế nông thôn: từ sản xuất manh mún sang hướng hàng hóa quy mô lớn, từ tư duy "làm cho đủ ăn" sang khát vọng vươn lên làm giàu. Đó là những chuyển đổi căn bản, cho thấy mục tiêu "giảm nghèo bền vững" đang dần trở thành hiện thực, không chỉ dựa vào trợ cấp mà dựa vào năng lực tự thân của người dân.
Nếu như trước đây, hỗ trợ giảm nghèo thường được ví như việc "cho con cá", thì nay chính sách đã chuyển hẳn sang "trao cần câu". Sinh kế được gắn liền với tập huấn kỹ thuật, xây dựng tổ hợp tác, hợp tác xã, chuyển giao khoa học – công nghệ và kết nối thị trường tiêu thụ. Các mô hình như nuôi bò sinh sản luân chuyển ở miền núi phía Bắc, trồng rau an toàn theo VietGAP ở đồng bằng sông Hồng, hay mô hình chăn nuôi gắn với du lịch cộng đồng tại Tây Nguyên đã giúp nhiều hộ tăng thu nhập gấp 2–3 lần. Ở nhiều nơi, những mô hình ấy còn tạo ra "cộng đồng sinh kế" – nơi người dân nương tựa vào nhau, cùng học hỏi, cùng phát triển.
Nhìn từ những kết quả đã đạt được, có thể thấy giảm nghèo bền vững ở Việt Nam không chỉ là các con số trong báo cáo, mà là sự chuyển mình của cả một cộng đồng, là niềm tin được bồi đắp qua từng mô hình thành công, từng con đường mới mở, từng ngôi nhà được dựng lên giữa vùng khó. Đó là minh chứng cho quyết tâm không để ai bị bỏ lại phía sau – một giá trị nhân văn sâu sắc, đồng thời là động lực của sự phát triển bền vững trong tương lai.
Mục tiêu của giai đoạn 2026-2030 là giảm tỉ lệ nghèo đa chiều cả nước bình quân 1% - 1,5%/năm hoặc giảm từ 1/2 - 2/3 quy mô hộ nghèo so với đầu kỳ. Để hoàn thành mục tiêu này, các cơ quan liên quan của Trung ương và địa phương tập trung phát triển hạ tầng kinh tế - xã hội các xã nghèo phục vụ phát triển sản xuất, đời sống dân sinh và thích ứng với biến đổi khí hậu; hỗ trợ xây dựng, nhân rộng mô hình sản xuất cho hộ nghèo, hộ cận nghèo, hộ mới thoát nghèo; phụ nữ và đồng bào dân tộc thiểu số, cộng đồng vùng nghèo.
Nhiều mô hình giảm nghèo hiệu quả từ cơ sở đang tạo chuyển biến thực chất
Ông Hoàng Văn Chiều, Phó Giám đốc Sở Nông nghiệp và Môi trường tỉnh Lạng Sơn cho biết sau 5 năm triển khai thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo bền vững, từ thực tiễn tổ chức thực hiện và những kết quả đã đạt được, ngành nông nghiệp và môi trường tỉnh đã rút ra nhiều bài học kinh nghiệm quan trọng.
Trước hết, bài học xuyên suốt là công tác lãnh đạo, chỉ đạo phải được thực hiện thống nhất, đồng bộ trong toàn bộ hệ thống chính trị, quán triệt đầy đủ về nhận thức và trách nhiệm.
Thứ hai, đầu tư cho giảm nghèo cần có trọng tâm, trọng điểm và mang tính bền vững. Theo ông Hoàng Văn Chiều, nguồn lực cần ưu tiên cho các địa phương còn tỷ lệ hộ nghèo cao, nhất là vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu số. "Đầu tư hạ tầng giao thông phải đi trước một bước, đóng vai trò nền tảng để hỗ trợ phát triển sản xuất, lưu thông hàng hóa, tạo điều kiện cho người dân tiếp cận thị trường và các dịch vụ xã hội, từ đó mở ra cơ hội thoát nghèo bền vững", ông chia sẻ.

Cán bộ, chuyên viên Trung tâm Cung ứng dịch vụ công xã Sơn Tây (Quảng Ngãi) tuyên truyền thông tin về mô hình hay, cách làm tốt cho người dân qua loa truyền thanh. Ảnh: Lê Ngọc Phước
Thứ ba, muốn người dân thoát nghèo một cách lâu dài thì việc hỗ trợ tạo sinh kế phải được thực hiện qua các dự án hỗ trợ phát triển sản xuất cần bám sát nhu cầu thực tế, điều kiện sản xuất và khả năng tiếp cận của từng nhóm đối tượng.
Thứ tư, cần khơi dậy ý chí tự lực, tự cường, tinh thần vươn lên thoát nghèo của mỗi hộ gia đình, kết hợp hài hòa giữa hỗ trợ của Nhà nước và nỗ lực của người dân để tạo ra nguồn thu nhập ổn định từ sản xuất, kinh doanh.
Thứ năm, cần có cơ chế linh hoạt để huy động thêm nguồn lực từ cộng đồng, doanh nghiệp, các tổ chức quốc tế và chính bản thân người dân tham gia vào quá trình thực hiện mục tiêu giảm nghèo.
Thứ sáu, việc kiểm tra, giám sát, đánh giá chương trình giảm nghèo phải được thực hiện thường xuyên, kịp thời. Qua đó, có thể hạn chế tiêu cực, ngăn chặn việc lợi dụng chính sách, đồng thời phát hiện sớm những bất cập, hạn chế để kiến nghị điều chỉnh, bổ sung phù hợp với thực tiễn.
Cuối cùng, theo ông Hoàng Văn Chiều khẳng định công tác tuyên truyền phải góp phần nâng cao nhận thức, tạo sự đồng thuận xã hội, giúp người dân, nhất là hộ nghèo và hộ cận nghèo, tiếp cận đầy đủ, kịp thời các chính sách giảm nghèo; từ đó từng bước xóa bỏ tâm lý trông chờ, ỷ lại, chủ động "thoát nghèo".
Những năm gần đây, nhiều địa phương đã chủ động triển khai mô hình giảm nghèo dựa vào nội lực cộng đồng, phù hợp với điều kiện thực tế và lợi thế sẵn có. Những mô hình được đưa ra đều có tác động mạnh mẽ, minh chứng cho vai trò của hệ thống chính trị cơ sở và tinh thần tự lực của người dân. Ở các tỉnh như Tuyên Quang, Sơn La, Lâm Đồng, Gia Lai, nhiều thôn – buôn đã thành lập nhóm hộ liên kết sản xuất với sự hỗ trợ của chính quyền xã và khuyến nông địa phương. Nhóm hộ cùng tham gia sản xuất theo quy trình chung, chia sẻ công cụ, chia sẻ kinh nghiệm và liên kết tiêu thụ. Trong đó, những mô hình tiêu biểu như: Trồng chuối tây xuất khẩu; Trồng rau hữu cơ; Chăn nuôi bò lai sinh sản; Trồng cây ăn quả …Các mô hình này giúp giảm mạnh chi phí sản xuất, tăng năng suất và mở rộng thị trường tiêu thụ.
Tại nhiều vùng đặc biệt khó khăn như miền núi phía Bắc, Tây Nguyên và Tây Nam Bộ, mô hình "sinh kế nhỏ – hiệu quả lớn" tiếp tục được triển khai như: Tặng gà, vịt giống và hỗ trợ chuồng trại; Hỗ trợ máy may, máy vắt sữa, máy cưa nhỏ; Hỗ trợ cần câu, ngư lưới cụ cho ngư dân; Trồng rau sạch quanh nhà, vườn - ao - chuồng quy mô nhỏ…Ưu điểm của mô hình này là dễ triển khai, phù hợp với hộ nghèo thiếu vốn và thiếu kỹ năng, đồng thời tạo thu nhập nhanh.
Cùng với mô hình sản xuất, truyền thông giữ vai trò khơi dậy tinh thần vượt khó của người dân. Những phóng sự, bài báo, chương trình truyền hình lan tỏa câu chuyện của người nghèo vươn lên từ đôi bàn tay mình đã tạo ra tác động tích cực, giúp cộng đồng học hỏi và noi theo.
Nhiều địa phương có chuyên mục riêng như "Người nghèo làm chủ", "Thoát nghèo bền vững", "Thanh niên lập nghiệp", góp phần hình thành lối sống tích cực và tư duy làm kinh tế cho cộng đồng.
Nhìn vào những chuyển biến rõ rệt từ nhiều mô hình trên cả nước, có thể khẳng định: muốn giảm nghèo bền vững, cần sự phối hợp chặt chẽ giữa chính sách đúng – tổ chức thực hiện tốt - phát huy nội lực người dân. Đây chính là con đường để Việt Nam thực hiện thắng lợi mục tiêu: giảm nghèo đa chiều, bao trùm và bền vững; không để ai bị bỏ lại phía sau; hướng tới một xã hội phát triển đồng đều và nhân văn.





























