Tháo gỡ tình trạng 'đóng băng' kết quả nghiên cứu, tài sản trí tuệ
Sáng 31-10, tiếp tục chương trình kỳ họp thứ mười, Quốc hội họp phiên toàn thể ở hội trường, nghe tờ trình và báo cáo thẩm tra dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Chuyển giao công nghệ.

Quang cảnh phiên họp. Ảnh: quochoi.vn
Trình bày tóm tắt tờ trình dự án Luật, Bộ trưởng Bộ Khoa học và Công nghệ Nguyễn Mạnh Hùng cho biết, việc ban hành Luật nhằm tiếp tục hoàn thiện khung pháp lý để thúc đẩy hoạt động chuyển giao công nghệ hiệu quả, đồng bộ, phù hợp với chủ trương phát triển kinh tế - xã hội và thực tiễn đất nước. Đồng thời, việc ban hành cũng giúp bắt kịp xu thế của thế giới trong chuyển giao công nghệ; tăng cường phân cấp, đơn giản hóa thủ tục hành chính về chuyển giao phân cấp, tăng cường công tác thông tin, thống kê về chuyển giao công nghệ phục vụ quản lý nhà nước...

Bộ trưởng Bộ Khoa học và Công nghệ Nguyễn Mạnh Hùng trình bày tờ trình. Ảnh: quochoi.vn
Việc xây dựng Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Chuyển giao công nghệ là thể chế hóa kịp thời quan điểm, đường lối đổi mới của Đảng và Nhà nước về phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số; coi doanh nghiệp là trung tâm của ứng dụng, chuyển giao và đổi mới công nghệ, thúc đẩy phát triển thị trường khoa học và công nghệ trong nước; ngăn chặn nhập khẩu công nghệ lạc hậu, tiếp thu và làm chủ công nghệ tiên tiến của thế giới, phù hợp với điều kiện Việt Nam.
Các nội dung sửa đổi, bổ sung Luật Chuyển giao công nghệ tập trung vào các nhóm chính sách gồm: Bổ sung phạm vi công nghệ cao theo xu thế trên thế giới và yêu cầu thực tiễn; bổ sung công nghệ chiến lược và đối tượng công nghệ ưu tiên chuyển giao; quy định thẩm định công nghệ không chỉ trong dự án đầu tư, mà còn theo đề nghị của các tổ chức, cá nhân để phù hợp với yêu cầu thực tiễn...

Chủ nhiệm Ủy ban Khoa học, Công nghệ và Môi trường của Quốc hội Nguyễn Thanh Hải trình bày Báo cáo thẩm tra dự án Luật. Ảnh: quochoi.vn
Thẩm tra dự án Luật, Chủ nhiệm Ủy ban Khoa học, Công nghệ và Môi trường của Quốc hội Nguyễn Thanh Hải cho biết, về phạm vi điều chỉnh (khoản 1 Điều 1), Ủy ban cơ bản tán thành với việc mở rộng một số đối tượng chuyển giao công nghệ phù hợp xu thế của thế giới (như công nghệ xanh, công nghệ sạch). Tuy nhiên, việc mở rộng phạm vi đối với việc “thẩm định công nghệ” nói chung mà không giới hạn chỉ thẩm định công nghệ đối với các dự án đầu tư như quy định tại Luật Chuyển giao công nghệ hiện hành thì cần tiếp tục được rà soát để bảo đảm tính khả thi trong tổ chức thực hiện và đồng bộ với pháp luật có liên quan.
Về chính sách của Nhà nước đối với hoạt động chuyển giao công nghệ (khoản 3 Điều 1), cơ quan chủ trì soạn thảo cần nghiên cứu, bám sát định hướng, yêu cầu của Nghị quyết số 57-NQ/TƯ ngày 22-12-2024 của Bộ Chính trị. Ngoài ra, rà soát, nghiên cứu bổ sung cơ chế khuyến khích để thực hiện hiệu quả chính sách “lan tỏa công nghệ... từ doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài (FDI) sang doanh nghiệp trong nước”.
Liên quan đến góp vốn bằng công nghệ (khoản 5 Điều 1), Ủy ban tán thành định hướng sửa đổi tại khoản này. Quy định này sẽ góp phần tích cực tháo gỡ tình trạng “đóng băng” kết quả nghiên cứu, tài sản trí tuệ. Song, việc quy định cho phép tự quyết định giá trị công nghệ góp vốn sẽ tiềm ẩn rủi ro rất lớn, trục lợi chính sách, như nguy cơ “thổi phồng” giá trị công nghệ góp vốn tạo ra “vốn ảo”, vấn đề chuyển giá do nâng khống giá trị công nghệ góp vốn để trốn thuế…, do vậy, cần có cơ chế, chế tài kiểm soát thật chặt chẽ, hiệu quả và các biện pháp xử lý bảo đảm tính răn đe.
Về việc Nhà nước mua và phổ biến công nghệ (khoản 21 Điều 1), Ủy ban nhất trí với chủ trương này, nhưng đề nghị làm rõ nguồn kinh phí, cơ chế giám sát và việc cụ thể hóa: Mối quan hệ giữa cơ chế “mua công nghệ để phổ biến” với quy định về việc “bắt buộc chuyển giao” theo Luật Sở hữu trí tuệ; tiêu chí chọn và định giá công nghệ; cơ chế bảo mật; các tiêu chí riêng cho công nghệ quốc phòng, an ninh; làm rõ khái niệm “trường hợp cấp thiết” và thẩm quyền của cơ quan nhà nước...
































