Thanh âm của núi
HNN - Người Cơ Tu ở thôn 5, xã Nam Đông (sáp nhập từ các xã Hương Xuân, Thượng Nhật và Hương Sơn) vẫn gọi già làng Trần Đình Lừa (72 tuổi) là 'kho báu sống' của bản làng. Bởi cho đến nay, ông là một trong những người hiếm hoi còn lưu giữ được tiếng chiêng linh thiêng đã gắn liền với bao thế hệ người Cơ Tu.

Già Trần Đình Lừa
Giữ gìn báu vật gia đình
Tay trái già Lừa nhẹ đặt lên mặt chiêng để giữ nhịp, tay phải cầm traco (dụng cụ gõ chiêng) nhịp nhàng điểm từng tiếng lên bề mặt chiêng đồng đã sẫm màu thời gian.
Một hồi chiêng ngân lên, vang vọng như kéo dài từ thẳm sâu ngàn năm cũ, dội qua vách núi, lan xa giữa đại ngàn trùng điệp. Âm thanh ấy như thấm vào lồng ngực, lay động cả tâm can người nghe.
“Chiếc chiêng này là báu vật của gia đình tôi”, già Lừa chậm rãi cất lời. “Tổ tiên tôi đã gìn giữ nó từ hàng trăm năm trước, qua bao đời ông cố, ông nội, cha tôi… rồi giờ đến tay tôi. Chiêng xưa, nên tiếng ngân trầm hùng, sâu lắng, như mang trong nó linh khí của đất trời, của hồn núi, hồn sông. Còn chiêng bây giờ, đúc mới tuy có đẹp, nhưng âm thanh đánh lên nghe đục, không vang, không có cái hồn như chiêng cổ”.
Già Lừa kể rằng, mấy chục năm trước, nhiều người từ miền xuôi đã lặn lội lên vùng cao, tìm đến các bản làng để tìm mua chiêng cổ. “Người ta đồn rằng, mỗi chiếc chiêng cổ đều có giấu kim cương bên trong”, già Lừa cười. Lúc ấy, một chiếc chiêng có thể đổi được vài con trâu đực, một tài sản lớn với người dân vùng cao lúc bấy giờ vẫn còn quá nhiều khó khăn. Thế nhưng người Cơ Tu của ông giữ chiêng như giữ lấy linh hồn mình, không ai nỡ bán.

Già Trần Đình Lừa kể chuyện về chiêng
“Nhà tôi ngày nào cũng có người tới hỏi mua chiêng, nên phải đóng cửa tránh mặt suốt ngày. Chiêng này do tổ tiên truyền lại, có đắt mấy cũng không thể bán. Bán cái chiêng là bán luôn ký ức của ông bà, là cắt đứt sợi dây ràng buộc giữa mình với tổ tiên. Chiêng rời khỏi nhà, cũng mang theo một phần hồn của bản làng mà đi. Giữ được cái chiêng, mới giữ được gốc rễ, giữ được cội nguồn”, giọng già Lừa chậm rãi.
Người Cơ Tu của ông mỗi khi cưới hỏi, ma chay, hay cúng mừng lúa mới, cúng rừng, cúng đất… tiếng chiêng lại cất lên. Tiếng chiêng gọi con cháu sum vầy, cũng là để mời hồn người đã khuất trở về chứng giám cho lòng thành của bản làng.
Mỗi lễ hội lại có một ngôn ngữ cồng chiêng khác biệt. Già Lừa giải thích “Trong lễ cưới, mổ heo thì tiếng chiêng đánh thưa, đều đều. Còn mổ trâu thì đánh nhanh hơn. Đặc biệt lễ làm nhà mồ, tiếng chiêng dồn dập, như tiếng gọi khẩn thiết đánh thức người đã khuất, triệu hồi thần linh từ xa xưa trở về với bản làng”.
Đau đáu niềm xưa
Từ thuở tuổi đôi mươi, già Lừa đã sử dụng thành thạo hầu hết các nhạc cụ của người Cơ Tu, với trống, khèn, đàn anbel… đặc biệt là chiêng. Những thanh âm linh thiêng ấy như ngấm vào máu thịt ông từ thuở thiếu thời. “Mình học bằng mắt, bằng tai và bằng trái tim”, già Lừa cười hiền nhớ lại. Chỉ cần ngắm nhìn những người già trong làng biểu diễn, nghe từng nhịp rung ngân, ông đã có thể mày mò học theo, rồi cứ thế lưu giữ trong lòng.
Âm nhạc của người Cơ Tu chính là tiếng nói của núi rừng, là sợi dây gắn kết thế hệ này với thế hệ khác, mùa hội này với mùa hội khác. Nhịp trống, nhịp chiêng cứ thế vang vọng qua năm tháng, ngân dài theo gió, theo mây.
Già Lừa cho biết, đánh chiêng tưởng chừng đơn giản, nhưng không phải ai cũng làm được. Người biết đánh, tay vừa nhịp mà hồn cũng hòa theo, âm thanh mới vang vọng, ngân xa. Còn người không thấm được nhịp điệu của núi rừng, tiếng chiêng nghe trầy trật, lạc lõng giữa không gian.
Già Lừa trầm ngâm, ánh nhìn xa xăm đầy nỗi niềm, ông bảo giờ lớp trẻ người Cơ Tu không còn nhiều đam mê với văn hóa nguồn cội như xưa. Những giai điệu hiện đại hấp dẫn hơn, ánh đèn sân khấu và mạng xã hội khiến nhiều người lãng quên những thanh âm xưa cũ bên bếp lửa nhà sàn. Ông sợ một ngày, tiếng chiêng, tiếng trống của bản làng mình sẽ chỉ còn trong ký ức, như vệt khói mỏng tan dần giữa đại ngàn.
Mang trong mình tình yêu sâu sắc với văn hóa truyền thống của người Cơ Tu, khi huyện Nam Đông (cũ) mở các lớp truyền dạy cồng chiêng, già Lừa không ngần ngại nhận lời đứng lớp, ông coi đó là cách để tiếp lửa cho thế hệ trẻ, để tiếng chiêng của bản làng không bị lãng quên giữa nhịp sống hiện đại.
“Đánh chiêng cũng đòi hỏi người đánh phải cảm bằng trái tim, nghĩ bằng khối óc, thì đôi tay mới có thể tạo nên nhịp điệu ưng ý”, già Lừa vừa nói vừa mô phỏng động tác. Tay phải dẻo dai, linh hoạt để tạo ra âm thanh tròn và vang. Mỗi nhịp chiêng đều cần sự kết hợp tinh tế giữa cảm xúc và kỹ thuật. “Chiêng vui thì đánh bằng nụ cười, nhịp nhàng chậm rãi. Chiêng buồn thì đánh bằng nỗi đau, âm vang dồn dập như tiếng than của đất trời”, người già làng đã đi qua hơn bảy mươi mùa rẫy chia sẻ.
Từ đôi tay và tấm lòng của già Lừa, nhiều người Cơ Tu trẻ đã học được cách đánh chiêng đúng với hồn cốt xưa của dân tộc mình. Những cái tên như Trần Văn Đang, Hồ Văn Bắc, Hồ Văn Giết… giờ đây đều có thể khiến tiếng chiêng ngân vang như tiếng rừng gọi, tiếng đất trời hòa điệu.
Con trai của già Lừa, anh Hồ Văn Lùn cũng tiếp bước cha, gắn bó với chiêng, với trống, với nhịp điệu thiêng liêng đã nuôi lớn tâm hồn người Cơ Tu qua bao đời. “Người già rồi sẽ rời đi. Người trẻ lớn lên phải tiếp tục giữ gìn những điều đẹp đẽ mà cha ông để lại. Đó là trách nhiệm”, anh Lùn cười hiền lành.
Vào những dịp hội làng, khi thanh niên trai tráng trong bản quây quần bên ánh lửa, say mê với điệu múa, tiếng trống, tiếng chiêng, đó cũng là lúc họ học cách chạm vào hồn cốt văn hóa của cha ông. Mỗi lễ hội ngoài niềm vui, còn là dịp giữ gìn, tiếp nối truyền thống. “Trong bản, ai thích học, tôi đều dạy hết”, già Lừa cười mộc mạc. Với già, nhiều người biết cách sử dụng, thì tiếng chiêng, tiếng trống mới vang mãi giữa đại ngàn”.
Ông Lê Nhữ Sửu, nguyên Trưởng phòng Văn hóa - Khoa học và Thông tin huyện Nam Đông (nay là Phó chủ tịch UBND xã Nam Đông) chia sẻ, những đóng góp đầy tâm huyết của già làng Trần Đình Lừa trong hành trình bảo tồn và gìn giữ bản sắc văn hóa Cơ Tu là vô cùng đáng quý, nhất là trong bối cảnh các giá trị truyền thống đang dần mai một giữa nhịp sống hiện đại.