Thái Nguyên: Giao rừng, tạo sinh kế cho đồng bào dân tộc
Đồng bào sinh sống ven rừng ở xã Bình Long không chỉ coi rừng như kế sinh nhai, mà còn là quê cha đất mẹ, là nơi để lao động, làm việc. 347 thành viên bảo vệ rừng thuộc hợp tác xã cũng là 347 hộ gia đình sinh sống ven rừng, là cửa rừng, là lá chắn bảo vệ, gìn giữ để rừng không bị xâm hại.

Lực lượng kiểm lâm huyện Võ Nhai (tỉnh Thái Nguyên) phối hợp khảo sát diện tích rừng được người dân đề nghị chuyển đổi sang trồng rừng gỗ lớn. (Ảnh HOÀNG CƯỜNG)
Theo Bộ Nông nghiệp và Môi trường, hơn 3,2 triệu héc-ta rừng giao cho UBND xã quản lý đang tạo sinh kế cho người dân dưới tán rừng, góp phần quan trọng vào thực hiện mục tiêu đến năm 2030 thu hút hơn 50% lực lượng lao động lâm nghiệp là người dân tộc thiểu số sống ở khu vực có rừng.
Đồng thời, nâng mức thu nhập bình quân tăng gấp 1,5 lần và đến năm 2050 tăng gấp hai lần so với mức thu nhập tại thời điểm năm 2025.
Sinh kế từ rừng
Nằm cách trung tâm thành phố Thái Nguyên gần 70 km, xã vùng cao Bình Long, huyện Võ Nhai những ngày này là cao điểm tuần tra, phòng chống cháy rừng, xâm hại rừng. Ngay từ sáng sớm, ông Trần Tuấn Hồi đã chuẩn bị đồ nghề cho buổi đi tuần rừng với đầy đủ dao, rìu, bật lửa, áo mưa, cơm nắm, chai nước, bộ nồi bát nhỏ và vài quả roi hái từ vườn nhà. Là Chủ nhiệm Hợp tác xã Nông, lâm nghiệp và Môi trường Thống Nhất cho nên vào mỗi độ cao điểm, ông thường cùng các anh em trong tổ chuyên trách đi tuần rừng khu vực giáp ranh với huyện Hữu Lũng, tỉnh Lạng Sơn để kịp thời phát hiện những vi phạm xâm hại rừng.
Cũng như ông Hồi, ông Lưu Văn Sinh, dân tộc Nùng, hiện đang là Tổ trưởng tổ bảo vệ rừng, cùng gia đình sinh sống ven rừng Bình Long. Với ông, rừng là máu thịt, là tài sản vô giá mà ông và những thành viên hợp tác xã nỗ lực gìn giữ, bảo vệ hơn 10 năm nay. Mỗi đợt tuần tra xa nhà, đi dọc rừng theo phân định ranh giới với tỉnh Lạng Sơn, ông lại bồi hồi như ngày đầu mới tham gia hợp tác xã bảo vệ rừng.
Ông Sinh nhớ lại: “Trước đây giao thông còn khó khăn, chỉ có đường đất đỏ quạch quanh năm bụi vào mùa nắng, lầy lội khi mưa xuống. Cuộc sống khó khăn quá cho nên nhiều người phải bỏ quê xuống thành phố tìm việc hoặc sang nước bạn làm thuê. Nhưng từ khi gia nhập hợp tác xã, trở thành thành viên bảo vệ rừng, được hướng dẫn trồng rừng và thu lượm nông sản trong rừng, trong núi nên dần dần đời sống cũng khấm khá lên”.
Đồng bào sinh sống ven rừng ở xã Bình Long không chỉ coi rừng như kế sinh nhai, mà còn là quê cha đất mẹ, là nơi để lao động, làm việc.
Đồng bào sinh sống ven rừng ở xã Bình Long không chỉ coi rừng như kế sinh nhai, mà còn là quê cha đất mẹ, là nơi để lao động, làm việc. 347 thành viên bảo vệ rừng thuộc hợp tác xã cũng là 347 hộ gia đình sinh sống ven rừng, là cửa rừng, là lá chắn bảo vệ, gìn giữ để rừng không bị xâm hại.
Xã vùng cao Bình Long có đường biên rừng giáp với xã Quyết Thắng (huyện Hữu Lũng, tỉnh Lạng Sơn), vì vậy công tác quản lý, bảo vệ rừng nơi đây đòi hỏi sự nỗ lực gấp bội. Hợp tác xã bảo vệ rừng có một tổ chuyên trách và 15 tổ tự quản ở các điểm rừng, phân chia lịch tuần tra quanh rừng. Chủ tịch Ủy ban nhân dân xã Bình Long Trần Quang Hưng cho biết, toàn bộ diện tích rừng núi trên địa bàn đã giao cho hai hợp tác xã quản lý theo chương trình REDD+ (cơ chế quốc tế nhằm giảm phát thải khí nhà kính, tránh mất rừng và suy thoái rừng) giúp nâng cao năng lực quản lý và bảo vệ rừng. Các xã viên nhờ đó có điều kiện nâng cao chất lượng đời sống, ít sử dụng chất đốt từ củi và tích cực tham gia vào các chương trình quản lý rừng bền vững, trồng rừng, cấp chứng chỉ rừng FSC (chứng nhận chuỗi hành trình gỗ và quản lý rừng bền vững đạt chuẩn quốc tế).
Giao rừng góp phần ổn định cuộc sống
Hiện tại cả nước có khoảng 3 triệu héc-ta rừng được giao cho các địa phương quản lý, trong đó xã Bình Long có 290 ha rừng sản xuất núi đất, hơn 1 triệu héc-ta rừng tự nhiên núi đá và hơn 288 ha diện tích rừng sản xuất núi đất đã được cấp chứng chỉ FSC. Tuy nhiên, theo Phó Chủ tịch kiêm Tổng Thư ký Hội Chủ rừng Việt Nam Nguyễn Bá Ngãi, diện tích đất của các đơn vị lâm nghiệp chuyển về địa phương quản lý còn rất khiêm tốn với hơn 674 nghìn héc-ta.
Địa phương khi tiếp nhận quản lý diện tích rừng cũng gặp nhiều khó khăn, hạn chế do phần diện tích đất bị lấn chiếm và cấp trùng lớn. Đất bàn giao về địa phương không thuận lợi cho tổ chức quản lý và sản xuất bởi phần lớn là đất trống, đồi trọc, đất xấu, bạc màu và xói mòn nằm ở các vùng giao thông khó khăn; hồ sơ rừng sơ sài hoặc không có; không rõ ranh giới trên thực địa.
Theo thông tin được công bố tại hội nghị về hiện trạng giao khoán đất lâm nghiệp vừa diễn ra tại Hà Nội, cả nước có khoảng hơn 24 nghìn hộ dân tộc thiểu số thiếu đất ở, hơn 210 nghìn hộ dân tộc thiểu số có nhu cầu hỗ trợ đất sản xuất, tình trạng thiếu đất sản xuất đối với đồng bào dân tộc thiểu số nghèo còn diễn ra ở nhiều địa phương. Một số bất cập, hạn chế khác cũng cần sửa đổi phù hợp để đồng bào dân tộc thiểu số yên tâm giữ rừng, góp phần cải thiện sinh kế, ổn định cuộc sống.
Một số chuyên gia cho rằng cần sửa đổi quy định khoán như: Nghị định số 135/2005/NĐ-CP, Nghị định số 168/2016/NĐ-CP… để phù hợp với thực tiễn, Luật Đất đai 2024 và Luật Doanh nghiệp. Nghiên cứu hỗ trợ kinh phí cho những người tham gia quản lý bảo vệ rừng và Ban Lâm nghiệp xã hoạt động hiệu quả.
Bên cạnh đó, cần đổi mới cơ chế quản lý, mở rộng đối tượng thụ hưởng nhằm khuyến khích bà con dân tộc thiểu số trong hoạt động bảo vệ và phát triển rừng. Các địa phương cũng cần tập trung hoàn thành kiểm kê đất, thống kê người đang sử dụng, xây dựng phương án tổ chức sử dụng đất được bàn giao; giải quyết dứt điểm các diện tích đất tranh chấp, lấn chiếm, cấp trùng, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế đồng bào dân tộc dưới tán rừng.