TFP trong giai đoạn tăng trưởng GDP cao: mũi tên trúng hai đích

Trong giai đoạn 2011-2024, mức tăng trưởng GDP có xu hướng tương đồng với sự tăng giảm trong đóng góp của TFP. Điều này mang hàm ý, để đạt mục tiêu tăng trưởng cao liên tục trong nhiều năm, đóng góp của TFP cần được nâng lên tương ứng.

Tăng trưởng kinh tế phụ thuộc vào ba yếu tố chính là vốn, lao động và năng suất nhân tố tổng hợp. Ảnh minh họa: DNCC

Tăng trưởng kinh tế phụ thuộc vào ba yếu tố chính là vốn, lao động và năng suất nhân tố tổng hợp. Ảnh minh họa: DNCC

Đầu tư công và TFP

Theo mô hình tăng trưởng Solow (kinh tế gia Mỹ Robert Solow), tăng trưởng kinh tế phụ thuộc vào ba yếu tố chính: vốn, lao động và năng suất nhân tố tổng hợp (TFP). Trong đó, đầu tư công tác động chủ yếu đến yếu tố vốn và TFP.

Báo cáo “Đầu tư công với mục tiêu tăng trưởng kinh tế giai đoạn 2026-2030 tại Việt Nam” thuộc nhóm Kiến nghị quí 2-2025 cho mục tiêu tăng trưởng nhanh và bền vững, do các chuyên gia kinh tế thuộc Đại học Kinh tế Quốc dân thực hiện, đã chỉ ra mối quan hệ giữa đầu tư công, tăng trưởng kinh tế và TFP. Theo các tác giả, trong giai đoạn 2011-2024, đầu tư công vào kết cấu hạ tầng tại Việt Nam tăng cả quy mô và tốc độ, với mức trung bình khoảng 12,2%/năm. Tuy nhiên, mối quan hệ thuận chiều giữa tăng trưởng đầu tư hạ tầng và GDP được ghi nhận rõ nét trong các giai đoạn ổn định kinh tế (các năm 2015-2019 và 2022-2024); còn trong giai đoạn 2020-2021, giai đoạn mà nền kinh tế chịu ảnh hưởng mạnh mẽ bởi đại dịch Covid-19, hiệu quả đầu tư công bị hạn chế.

Cũng trong giai đoạn này, xu hướng tăng dần của đóng góp TFP vào tăng trưởng GDP được ghi nhận. Theo các tác giả, trong giai đoạn 2011-2015, đóng góp của TFP vào tăng trưởng GDP dao động từ 29,1-33,5%, cho thấy tăng trưởng chủ yếu dựa vào tích lũy vốn và lao động hơn là cải thiện hiệu quả sử dụng các yếu tố đầu vào. Mối quan hệ giữa đầu tư công và năng suất trong giai đoạn này còn mờ nhạt, phản ảnh tính chất đầu tư “theo chiều rộng” thay vì “theo chiều sâu”.

Đến giai đoạn 2016-2020, với những cải cách thể chế mạnh mẽ và sự chuyển hướng chiến lược đầu tư công, TFP đã đóng góp trung bình 45,2% vào tăng trưởng GDP. Trong giai đoạn 2021-2024, ảnh hưởng của đại dịch Covid-19 đã làm giảm mức đóng góp của TFP, dù vậy, đóng góp của TFP vẫn tương đối cao với mức trung bình trên 37,5% và đạt 45,5% vào năm 2024. Đầu tư công đã hướng tới các lĩnh vực có khả năng thúc đẩy đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số như hạ tầng số, y tế công cộng, năng lượng tái tạo và công nghệ xanh.

Các tác giả của báo cáo nhận định, đóng góp của TFP vào tăng trưởng GDP đạt mức cao, trên 45% vào năm 2024, tiệm cận với ngưỡng mà các mô hình tăng trưởng nội sinh xác định là dấu hiệu của chuyển đổi từ tăng trưởng dựa vào vốn sang tăng trưởng dựa vào đổi mới và hiệu quả. Việc tiếp tục cải thiện hệ số hiệu quả đầu tư (ICOR) và nâng cao TFP thông qua đầu tư công có trọng điểm, đặc biệt là vào hạ tầng số, giáo dục - đào tạo, logistics và chuyển đổi năng lượng sẽ là một đòn bẩy căn bản để nâng tốc độ tăng trưởng tiềm năng, đồng thời đảm bảo chất lượng và tính bền vững của tăng trưởng.

Vốn dữ liệu và TFP

Báo cáo “Vốn dữ liệu và tăng trưởng kinh tế: Khuyến nghị chính sách cho mục tiêu tăng trưởng hai con số”, cũng thuộc nhóm Kiến nghị quí 2-2025 cho mục tiêu tăng trưởng nhanh và bền vững của Đại học Kinh tế Quốc dân, đưa ra một góc nhìn khác về TFP. Các nhà nghiên cứu đã ước lượng đóng góp của vốn dữ liệu đến tăng trưởng kinh tế địa phương cấp tỉnh/thành phố ở Việt Nam trong giai đoạn 2020-2022 (trước khi thay đổi địa giới hành chính từ ngày 1-7-2025). Giai đoạn này, Việt Nam đẩy mạnh số hóa dữ liệu hay chuyển đổi số bởi nhiều hoạt động sản xuất và tiêu dùng buộc phải chuyển sang hoạt động trực tuyến. Dựa trên ba yếu tố đầu vào chính: lao động, vốn hữu hình và vốn dữ liệu, TFP được xác định là phần dư, tức là phần không thể giải thích được bởi ba yếu tố đầu vào trên.

Theo nhóm nghiên cứu, xét theo từng địa phương, trong các năm 2021 và 2022, đóng góp từ vốn dữ liệu vào tăng trưởng lần lượt là: TPHCM (9% và 5,8%); Hải Phòng (8,5% và 7,3%); Đà Nẵng (6,6% và 5,3%); Hà Nội (6,3% và 13%); Cần Thơ (6,2% và 8,8%). Theo nhóm nghiên cứu, trừ trường hợp của Cần Thơ năm 2021, đóng góp của vốn dữ liệu ở các địa phương trên đều vượt trội so với lao động, vốn hữu hình và TFP.

Nhìn từ khía cạnh TFP, các nhà nghiên cứu nhận định, khi tách biệt đóng góp của vốn dữ liệu và TFP, đóng góp của TFP giảm đi đáng kể. PGS.TS. Lê Quang Cảnh, Viện trưởng Viện Phát triển bền vững, Đại học Kinh tế Quốc dân, giải thích TFP là phần đóng góp cho GDP còn lại sau khi trừ đi đóng góp của vốn và lao động, nghĩa là trong TFP tính theo cách truyền thống, đã có sự đóng góp của vốn dữ liệu. Nếu tách phần này ra, phần TFP còn lại giảm đi, nghĩa là vốn dữ liệu đang có đóng góp rất lớn trong phần TFP theo cách tính truyền thống.

Qua nghiên cứu, các nhà kinh tế khẳng định vai trò ngày càng quan trọng của vốn dữ liệu tới tăng trưởng GDP, đòi hỏi phải phân định rõ ràng mức đóng góp của nguồn tài nguyên này, từ đó, có những chính sách huy động và khai thác vốn dữ liệu cho tăng trưởng như: xây dựng và phát triển cơ sở hạ tầng dữ liệu quốc gia; xây dựng và phát triển chính sách bảo mật và quản lý dữ liệu hợp lý; thúc đẩy chia sẻ và hợp tác dữ liệu; xây dựng môi trường pháp lý linh hoạt và thích ứng, trong đó có việc nâng cao trình độ “số” cho người dân thông qua một chương trình mục tiêu quốc gia về “vốn dữ liệu”...

Đối với TFP, theo các nhà nghiên cứu, trong các mô hình tăng trưởng kinh tế, vốn dữ liệu đều tác động tới TFP, theo cách trực tiếp hoặc gián tiếp. Ngân hàng Thế giới (2021) ước tính rằng các quốc gia khai thác vốn dữ liệu hiệu quả có thể tăng TFP thêm 1-2% mỗi năm.

Mũi tên trúng hai đích

Nhìn vào quan hệ của TFP với đầu tư công và vốn dữ liệu, đối với Việt Nam, giải pháp khả thi nhất để khai thác tốt nhất các yếu tố nêu trên vẫn là đầu tư công. Nhóm tác giả của báo cáo “Đầu tư công với mục tiêu tăng trưởng kinh tế giai đoạn 2026-2030 tại Việt Nam” gợi ý, kinh nghiệm từ các quốc gia thành công trong việc duy trì tốc độ tăng trưởng kinh tế cao như Hàn Quốc, Trung Quốc và Singapore cho thấy vai trò then chốt của đầu tư công không chỉ nằm ở việc tạo lập cơ sở vật chất ban đầu mà còn ở năng lực dẫn đắt các chuyển đổi kinh tế mang tính chiến lược. Đối với Việt Nam, một là, tăng cường đầu tư vào nghiên cứu - phát triển và công nghệ cao; hai là, phát triển hệ thống kết cấu hạ tầng đồng bộ, hiện đại, trong đó ưu tiên các hạ tầng chiến lược kết nối liên vùng, logistics và hạ tầng phục vụ chuyển đổi số; ba là, ưu tiên đầu tư cho giáo dục và đào tạo nhân lực chất lượng cao; bốn là, hướng đến đầu tư công xanh và phát triển bền vững.

Muốn vậy, theo các nhà nghiên cứu, việc phân bổ đầu tư công cần chuyển từ cơ chế “xin - cho” hoặc “cào bằng” sang cơ chế dựa trên hiệu quả kinh tế - xã hội, nhất là đóng góp tiềm năng vào TFP. Định hướng này sẽ phát huy hiệu quả nếu chúng ta phát triển được bộ chỉ số đánh giá tác động của đầu tư công đến TFP, dựa trên phân tích dữ liệu lớn và mô hình kinh tế lượng, trở thành công cụ để giám sát hiệu quả dài hạn của đầu tư công.

Đối với việc phát huy vai trò và đóng góp của vốn dữ liệu, thiết nghĩ, lời giải cũng tương tự như vậy.

Tài liệu tham khảo:
- https://khoahoc.neu.edu.vn/Resources/Docs/SubDomain/khoahoc/Kiến%20nghị/2025/8.%20Kiến%20nghị%20Đầu%20tư%20công-PGS.TS%20Phạm%20Văn%20Hùng.pdf
- https://khoahoc.neu.edu.vn/Resources/Docs/SubDomain/khoahoc/Kiến%20nghị/2025/7.%20Kiến%20nghị%20Vốn%20dữ%20liệu-PGS.TS%20Lê%20Quang%20Cảnh.pdf

Khánh Nguyên

Nguồn Saigon Times: https://thesaigontimes.vn/tfp-trong-giai-doan-tang-truong-gdp-cao-mui-ten-trung-hai-dich/
Zalo