Tăng trưởng tín dụng toàn ngành ngân hàng cải thiện rõ rệt so với năm ngoái

Tính đến ngày 27/11/2024, tăng trưởng tín dụng toàn ngành ước đạt 11,5%, với tổng dư nợ tín dụng vượt mốc 14,8 triệu tỷ đồng. Đáng chú ý, 27 ngân hàng niêm yết chiếm tới 77% thị phần, tương đương 11,4 triệu tỷ đồng. Những con số này phản ánh rõ sức bật của ngành ngân hàng trong bối cảnh kinh tế nhiều thách thức.

Ngân hàng Nhà nước tiếp tục nới room tín dụng cho các ngân hàng Ngân hàng Nhà nước tiếp tục nới 'room' tín dụng, giá vàng và tỷ giá cùng giảm

Tín dụng bất động sản vượt kỳ vọng

Trong báo cáo phân tích ngành ngân hàng mới nhất của Công ty CP Chứng khoán Sài Gòn Hà Nội (SHS), theo các chuyên gia, lợi nhuận sau thuế (LNST) của toàn ngành đạt con số ấn tượng trong quý III/2024, với tổng cộng 56.000 tỷ đồng từ các ngân hàng niêm yết.

Tính từ đầu năm, LNST vẫn duy trì mức tăng trưởng hơn 10% so với cùng kỳ. Tuy nhiên, trong quý III, tốc độ tăng trưởng LNST có dấu hiệu chậm lại, giảm 8% so với quý trước do chi phí tăng, khiến tỷ lệ chi phí hoạt động (CIR) toàn ngành đạt 33,9%, tăng 2,1 điểm phần trăm theo quý.

Cơ cấu thu nhập cho thấy tổng thu nhập hoạt động (TOI) tăng 13% so với cùng kỳ năm trước, trong đó thu nhập lãi thuần tăng mạnh 18% nhờ nền so sánh thấp. Tuy nhiên, thu nhập ngoài lãi lại giảm 3% do mảng dịch vụ có sự sụt giảm nhẹ. Tăng trưởng tín dụng tính đến ngày 27/11/2024 đạt 11,5%, với tổng dư nợ tín dụng hơn 14,8 triệu tỷ đồng, trong đó các ngân hàng niêm yết đóng góp tới 77%.

Vào ngày 27/11, Ngân hàng Nhà nước yêu cầu các tổ chức tín dụng duy trì lãi suất ổn định, hợp lý, đảm bảo cân đối vốn, phát triển tín dụng lành mạnh và quản lý rủi ro hiệu quả, nhằm ổn định thị trường. Dự báo, lãi suất huy động ngắn hạn sẽ duy trì ổn định và phân hóa giữa các ngân hàng tùy vào nhu cầu vốn.

Nhóm ngân hàng tư nhân có sự bứt phá trong tăng trưởng tín dụng, đặc biệt là mảng cho vay doanh nghiệp. Một số ngân hàng đã được cấp thêm hạn mức tín dụng trong quý IV nhờ hiệu suất vượt trội.

Ở chiều ngược lại, nhóm tập trung cho vay bán lẻ ghi nhận tăng trưởng tín dụng chậm hơn, một phần do xu hướng giảm dư nợ trái phiếu doanh nghiệp và tập trung vào các khoản vay khách hàng cá nhân.

Phân theo ngành nghề, tín dụng bất động sản tiếp tục chiếm tỷ trọng đáng kể với 21% tổng tín dụng, đạt hơn 3,15 triệu tỷ đồng. Mảng tiêu dùng như vay mua nhà, sửa nhà có mức tăng ổn định, trong khi tín dụng cho chủ đầu tư bất động sản tăng trưởng mạnh mẽ, phản ánh sự phân hóa rõ rệt trong lĩnh vực này. Thanh khoản thị trường bất động sản cũng khởi sắc nhờ nguồn cung mới và chính sách lãi suất hỗ trợ từ các ngân hàng.

Tỷ lệ bao phủ nợ xấu giảm

Cũng trong báo cáo phân tích của SHS, các chuyên gia chỉ ra rằng, tăng trưởng tín dụng toàn ngành tính đến cuối tháng 11 đạt 11,5%, tương đương tổng dư nợ hơn 14,8 triệu tỷ đồng. Trong đó, nhóm ngân hàng tư nhân dẫn đầu về tốc độ tăng trưởng, đặc biệt trong mảng cho vay doanh nghiệp.

Tuy nhiên, mảng cho vay bán lẻ tăng trưởng chậm hơn, một phần do chiến lược giảm dư nợ trái phiếu doanh nghiệp (TPDN). Đáng chú ý, dư nợ tín dụng bất động sản tăng trưởng mạnh, đạt 3,15 triệu tỷ đồng, với sự phân hóa rõ giữa tín dụng đầu tư và tiêu dùng.

Thị trường trái phiếu doanh nghiệp tiếp tục sụt giảm, đặc biệt ở nhóm ngân hàng tư nhân nắm giữ tỷ trọng cao, trong khi các ngân hàng quốc doanh duy trì mức thấp. Kết thúc quý III, quy mô giấy tờ có giá của các ngân hàng niêm yết tăng 14,4%.

Theo thống kê từ Hiệp hội Trái phiếu Việt Nam (VBMA), trong 11 tháng đầu năm 2024, các ngân hàng đã phát hành tổng cộng 260.882 tỷ đồng trái phiếu, chiếm tới 69,6% tổng giá trị trái phiếu doanh nghiệp trên thị trường.

Tỷ lệ nợ xấu toàn ngành tăng lên 2,25%, với sự gia tăng đáng kể ở các nhóm nợ từ 3 đến 5, trong khi tỷ lệ bao phủ nợ xấu giảm xuống 83%. Với Thông tư 02/2023/TT-NHNN sắp hết hiệu lực vào cuối năm, ngành ngân hàng đối diện áp lực tăng trích lập dự phòng, ảnh hưởng khác nhau tùy thuộc vào sức khỏe tài chính và bộ đệm dự phòng của từng ngân hàng.

Trong bối cảnh này, theo các chuyên gia, định giá ngành ngân hàng hiện ở mức thấp hơn trung bình dài hạn, với hệ số P/B khoảng 1,5 lần, giảm 13% so với mức trung bình giai đoạn 2012-2024. Đây có thể là cơ hội đầu tư hấp dẫn khi tiềm năng tăng trưởng vẫn còn, đặc biệt với các ngân hàng có nền tảng tài chính vững chắc và chiến lược kinh doanh hiệu quả./.

Ngày 31/12/2024, Thông tư Thông tư 02/2023/TT-NHNN về tái cơ cấu nợ sẽ hết hiệu lực, nhưng hiện vẫn chưa có thông báo chính thức từ Ngân hàng Nhà nước về việc gia hạn hoặc dừng áp dụng theo lộ trình. Tính đến cuối quý II/2024, dư nợ tái cơ cấu theo Thông tư này đạt 230.000 tỷ đồng, tăng 25,6% so với đầu năm. Theo quy định, các ngân hàng phải trích lập dự phòng đầy đủ cho các khoản nợ tái cơ cấu, với tỷ lệ trích lập 50% mỗi năm và đạt 100% vào cuối năm 2024.

Nếu Thông tư không được gia hạn, điều này có thể dẫn đến gia tăng quy mô nợ xấu và giảm tỷ lệ bao phủ nợ xấu trên toàn hệ thống. Tuy nhiên, tác động sẽ không đồng đều. Các ngân hàng có bộ đệm dự phòng tốt và tình hình tài chính lành mạnh sẽ ít chịu ảnh hưởng. Ngược lại, những ngân hàng có tỷ lệ nợ nhóm 2 cao và tỷ lệ bao phủ nợ xấu thấp sẽ đối mặt với nhiều áp lực hơn, đặc biệt trong việc đảm bảo chất lượng tài sản và quản trị rủi ro.

Thu Hương

Nguồn Thời báo Tài chính: https://thoibaotaichinhvietnam.vn/tang-truong-tin-dung-toan-nganh-ngan-hang-cai-thien-ro-ret-so-voi-nam-ngoai-166100.html
Zalo