Tăng tốc GDP xét dưới góc độ sử dụng
Tăng tốc GDP trong Kỷ nguyên mới - Kỷ nguyên vươn mình của dân tộc được xem xét dưới các góc độ khác nhau, trong đó có góc độ quan hệ giữa sản xuất và sử dụng GDP...

Quan hệ giữa sản xuất GDP và sử dụng GDP xét về mặt tính toán được biểu hiện ở công thức tổng quát sau:

Cơ cấu sử dụng GDP từ năm 2019 đến năm 2023 như sau (bảng 1). Xem xét các khoản sử dụng có thể bình luận trên một số nét chủ yếu.

TÍCH LŨY TÀI SẢN
Về kết quả tích cực, tích lũy tài sản so với GDP của Việt Nam thuộc loại cao trong khu vực Đông Nam Á (2), ở châu Á (6) và trên thế giới (14/142 nước và vùng lãnh thổ có số liệu so sánh). Đây là kết quả của tâm lý “tích cốc phòng cơ” của phần lớn người dân; đã đưa đến nhiều kết quả tích cực (như tỷ lệ vay nợ nước ngoài/GDP ở mức thấp, ngân sách bội chi không cao, đã có một số năm bội thu…).
Tích lũy tập trung chủ yếu về tài sản cố định; tỷ trọng thay đổi tồn kho nhỏ… Tỷ lệ tích lũy/GDP cao tạo tiền đề tăng tỷ lệ vốn đầu tư thực hiện/GDP đạt mức khá cao, đứng hàng đầu thế giới. Cụ thể: vốn đầu tư thực hiện/GDP năm 2019 là 34,65%, 2020 là 34,84%, 2021 là 34,13%, 2022 là 35,5% và 2023 là 33,17%.
Tỷ lệ tích lũy cao đã góp phần làm cho tăng trưởng GDP của Việt Nam đạt số năm liên tục đứng hàng đầu thế giới (44 năm, chỉ thấp thua số năm kỷ lục 47 năm hiện do Trung Quốc nắm giữ). Nhờ tích lũy, đầu tư và tăng trưởng cao, nên GDP bình quân đầu người đã vượt qua nhóm có thu nhập thấp lên trung bình (thấp) vào năm 2008 và có khả năng lên trung bình cao, lên thu nhập cao trong Kỷ nguyên vươn mình. Nhờ đó lạm phát đã được kiểm soát theo mục tiêu năm thứ 11, xuất siêu hàng hóa năm thứ 10 liên tiếp, tỷ lệ thất nghiệp thấp hơn mục tiêu, tỷ lệ nghèo giảm,…

Tuy nhiên, tích lũy tài sản cũng còn những hạn chế, yếu kém.
Một là, tỷ suất lợi nhuận trước thuế của khu vực doanh nghiệp còn khá thấp. Năm 2018 chỉ đạt 3,79%, năm 2019 giảm còn 3,38%, từ năm 2020 tăng nhẹ đạt 3,48%, năm 2021 đạt 4,2% và năm 2022 đạt 4,06%, theo Niên giám thống kê năm 2023.
Trong đó, tỷ suất lợi nhuận trước thuế của doanh nghiệp trong nhiều ngành năm 2022 còn thấp hơn lãi suất vay ngân hàng, thậm chí còn thấp hơn cả lãi suất tiền gửi ngân hàng, như: công nghiệp chế biến chế tạo 3,73%; sản xuất, phân phối điện, khí đốt, nước nóng, hơi nước và điều hòa không khí 2,77%; xây dựng 1,52%; bán buôn, bán lẻ, sửa chữa ô tô, mô tô, xe máy và xe có động cơ 1,04%; vận tải kho bãi 2,59%; hoạt động hành chính và dịch vụ hỗ trợ 1,84%; hoạt động dịch vụ khác 2,36%.
Có ngành và một số địa phương, tỷ suất này còn mang dấu âm (lỗ), như: dịch vụ lưu trú, ăn uống -4,19%; một số ngành cụ thể (như sản xuất kim loại -0,65%; sản xuất xe có động cơ, rơ moóc -1,62%; sửa chữa, bảo dưỡng và lắp đặt máy móc, thiết bị -0,69%; vận tải hàng không -27,41%; dịch vụ lưu trú -10,62%; dịch vụ ăn uống -0,64%; hoạt động điện ảnh, sản xuất chương trình truyền hình, ghi âm, xuất bản âm nhạc -4,05%; hoạt động phát thanh, truyền hình -7,99%; hoạt động dịch vụ thông tin -2,40%; hoạt động trợ giúp xã hội không tập trung -19,73%; hoạt động chăm sóc, điều dưỡng tập trung -5,76%; hoạt động tư viện, lưu trữ, bảo tàng và các hoạt động văn hóa khác -2,03%; hoạt động sáng tác, nghệ thuật và giải trí -0,76%); một số địa phương như: Thái Bình -1,44%, Bắc Kạn -0,96%, Lạng Sơn -0,65%, Phú Thọ -0,40%, Thanh Hóa -2,37%, Hà Tĩnh -4,02%, Quảng Bình -0,63%, Bình Định -7,40%.
Trong nông, lâm nghiệp - thủy sản, nhiều hộ, nhiều cây, con còn tình trạng “lấy công làm lãi”; trong công nghiệp tình trạng “gia công lắp ráp” còn chiếm tỷ trọng lớn, không chỉ làm cho thực thu còn thấp (chủ yếu do giá nhân công rẻ), mà còn gây ra nhập khẩu lớn, thậm chí còn gây ra tình trạng có nước lợi dụng Việt Nam để né thuế xuất khẩu vào các thị trường,…
Hai là, tỷ lệ so với GDP của vốn đầu tư lớn hơn của tích lũy tài sản (biểu đồ 3). Trạng thái này tuy có mặt tích cực, nhưng lại có hạn chế, yếu kém trên hai mặt: (i) do đầu tư lớn hơn tích lũy làm cho mất cân đối về đầu tư so với nguồn; (ii) trong điều kiện bội chi ngân sách, trạng thái này nếu kéo dài là nguy hiểm, sẽ làm tăng nợ công, nợ nước ngoài.
Ba là, trong tổng vốn đầu tư có một phần không nhỏ đã bị “chôn” vào các kênh không trực tiếp cho sản xuất kinh doanh, có tính chất đầu cơ (như vàng, bất động sản,…) và gây ra bất ổn trong những kênh này.
Bốn là, hiệu quả đầu tư còn thấp, khi hệ số ICOR (biểu hiện để GDP tăng 1 đồng phải đầu tư bao nhiêu đồng vốn đầu tư - tính theo giá so sánh) còn ở mức cao so với nhiều nước tiên tiến (khoảng 3 lần), thậm chí cao ngất ngưởng ở mức trên 14-15 lần trong những năm xảy ra đại dịch Covid-19 (biểu đồ 2).
TIÊU DÙNG CUỐI CÙNG
Kết quả tích cực được thể hiện trên 3 mặt.
Thứ nhất, tỷ lệ tiêu dùng cuối cùng trong GDP đã có xu hướng giảm xuống, là một trong những yếu tố làm tăng tỷ lệ tích lũy, tỷ lệ đầu tư trong GDP. Đây là sự cố gắng của những nước có điểm xuất phát thấp, những nước đang phát triển với tâm lý “tích cốc phòng cơ”, thậm chí là “thắt lưng buộc bụng” để dành vốn cho đầu tư phát triển, phù hợp với chủ trương tiết kiệm, chống lãng phí hiện nay.

Thứ hai, tỷ lệ tiêu dùng của Nhà nước hiện ở mức thấp dưới 10% và đã có xu hướng giảm; xu hướng giảm sẽ tiếp tục được đẩy mạnh trong công cuộc tinh gọn bộ máy hiện nay.
Thứ ba, cơ cấu thu nhập, chi tiêu, tiêu dùng có sự chuyển dịch theo hướng tích cực. Theo Niên giám thống kê năm 2023, chênh lệch thu nhập bình quân đầu người một tháng theo thành thị, nông thôn, theo vùng có xu hướng giảm. Theo đó, chênh lệch thu nhập bình quân đầu người một tháng thành thị so với nông thôn năm 2019 là 1,8 lần, thì năm 2022 giảm còn 1,53 lần; vùng cao nhất so với vùng thấp nhất năm 2019 là 2,38 lần, thì tới năm 2023 giảm còn 1,91 lần.
Đó là sự cố gắng vượt lên của khu vực nông thôn và vùng có điểm xuất phát thấp, do sự cố gắng của nông thôn, của các vùng thấp, sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế ở khu vực nông thôn và chính sách hỗ trợ của Nhà nước (thông qua xây dựng nông thôn mới, xóa đói giảm nghèo,…).
Chênh lệch chi tiêu bình quân đầu người một tháng theo thành thị - nông thôn giảm xuống, nhưng theo vùng cao nhất - vùng thấp nhất có năm tăng, năm giảm. Cụ thể: chênh lệch chi tiêu bình quân đầu người một tháng thành thị so với nông thôn năm 2014 là 1,68 lần, thì tới năm 2020 giảm còn 1,58 lần và năm 2022 là 1,31 lần; vùng cao nhất so với vùng thấp nhất năm 2014 là 1,57 lần, năm 2016 là 1,82 lần, năm 2018 là 1,67 lần, năm 2020 là 1,87 lần và năm 2022 là 1,82 lần (theo Niên giám thống kê năm 2023).
Tỷ lệ hộ nghèo có xu hướng giảm xuống qua các năm; đối với khu vực nông thôn, một số vùng còn giảm mạnh hơn (bảng 2).
Mức tiêu dùng bình quân đầu người một tháng đã có sự thay đổi thể hiện cơ cấu tiêu dùng có sự thay đổi theo hướng chất lượng cuộc sống tăng: chi cho lương thực và một số khoản giảm, chi cho thực phẩm, du lịch,… tăng.
Tuy nhiên, về tiêu dùng cuối cùng cũng còn một số hạn chế yếu kém: tỷ lệ tiêu dùng cuối cùng/GDP giảm chứng tỏ tiêu dùng cuối cùng - một khoản quan trọng, một yếu tố lớn của tăng trưởng - còn yếu; tình trạng lãng phí vẫn còn lớn, nhất là trong đầu tư xây dựng, trong việc lựa chọn giữa hàng sản xuất trong nước với hàng nhập khẩu,…; chênh lệch thu nhập, tiêu dùng, chi tiêu tuy giảm, nhưng vẫn còn lớn…
XUẤT, NHẬP KHẨU VÀ XUẤT, NHẬP SIÊU
Trong khi tốc độ tăng tổng cầu trong nước (gồm tích lũy tài sản và tiêu dùng cuối cùng) còn thấp hơn của GDP, tỷ trọng tiêu dùng cuối cùng/GDP giảm,… thì xuất khẩu, nhất là xuất khẩu hàng hóa đạt được nhiều sự vượt trội.
Tăng trưởng tính bằng USD của xuất khẩu hàng hóa trong nhiều năm cao hơn tốc độ tăng của GDP. Nhờ đó, xuất khẩu hàng hóa/GDP của Việt Nam có xu hướng cao lên và thuộc loại cao trên thế giới (biểu đồ 3). Nhờ xuất khẩu tăng và có quy mô cao hơn của nhập khẩu hàng hóa, nên xuất siêu hàng hóa đạt liên tục từ năm 2016 đến nay (biểu đồ 4).
Nhiều mặt hàng xuất khẩu của Việt Nam có quy mô trên 1 tỷ USD và tăng lên qua các năm: năm 2016 có 24, 2017 có 29, 2018 có 30, 2019 có 28, 2020 có 29, 2021 có 33, 2022 có 31, 2023 có 32, 2024 có 36. Trong đó có một số mặt hàng có quy mô đứng hàng đầu trên thế giới, nhất là gạo, giày dép, dệt may, một số thủy hải sản, cà phê, hạt tiêu, hạt điều, một số nông, lâm sản khác, điện tử máy tính, điện thoại và linh kiện,…

Số địa bàn đạt 1 tỷ USD trở lên đạt khá và tăng lên (năm 2016 có 25, 2017 có 28, 2018 có 31, 2019 có 33, 2020 có 31, 2021 có 36, 2022 có 38, 2023 có 38, ước 2024 có 41). Trong đó có một số địa bàn đạt trên 10 tỷ USD, cao nhất là TP. Hồ Chí Minh gần 47 tỷ USD, Bắc Ninh trên 39 tỷ USD, Bình Dương gần 35 tỷ USD, Bắc Giang trên 31 tỷ USD, Hải Phòng trên 30,5 tỷ USD, Thái Nguyên trên 27,3 tỷ USD,…
“Câu lạc bộ” các thị trường kim ngạch xuất khẩu hàng hóa đạt trên 1 tỷ USD khá nhiều, tăng lên qua các năm (năm 2016 có 28, 2017 có 28, 2018 có 30, 2019 có 31, 2020 có 31, 2021 có 33, 2022 có 33, 2023 có 32, ước 2024 có 34). Trong đó năm 2024 có một số thị trường đạt trên 10 tỷ USD, cao nhất là Hoa Kỳ gần 120 tỷ USD, Trung Quốc trên 61,2 tỷ USD, Hàn Quốc trên 25,6 tỷ USD, Nhật Bản trên 24,6 tỷ USD, Hà Lan gần 13 tỷ USD, Hồng Kông trên 11,3 tỷ USD, Anh gần 6,6 tỷ USD, Canada trên 5,4 tỷ USD,…
Chính xuất siêu hàng hóa đã góp phần đạt xuất siêu cả hàng hóa và dịch vụ, đóng góp quan trọng vào tăng trưởng liên tục và đạt khá trong thời gian gần đây, ngay cả khi tổng cầu trong nước còn yếu.
Bên cạnh những kết quả tích cực, xuất, nhập khẩu hiện có một số hạn chế, yếu kém.

Dịch vụ liên tục nhập siêu lớn (biểu đồ 5). Nguyên nhân chủ yếu do xuất khẩu dịch vụ còn chiếm tỷ trọng nhỏ trong tổng kim ngạch xuất khẩu hàng hóa, dịch vụ, trong tổng GDP nhóm ngành dịch vụ; trong khi nhập khẩu dịch vụ chiếm tỷ trọng cao hơn, tăng và có quy mô lớn hơn, nhất là dịch vụ vận tải, dịch vụ du lịch, dịch vụ khác,…
Trong tổng nhập siêu dịch vụ, nhập siêu dịch vụ vận tải lớn nhất và liên tục do vận tải viễn dương của Việt Nam còn yếu; nhập siêu dịch vụ khác lớn thứ hai; một số dịch vụ (như bảo hiểm, dịch vụ tài chính, dịch vụ chính phủ,…) còn yếu. Ngay dịch vụ du lịch trong một số năm (như 2020, 2022, 2024) cũng còn nhập siêu.
Về hàng hóa cũng có nhiều hạn chế, yếu kém. Khu vực kinh tế trong nước chiếm tỷ trọng nhỏ trong tổng kim ngạch xuất khẩu (trên dưới 25%); nhập siêu hoàn toàn do khu vực này tạo ra, còn xuất khẩu do khu vực có vốn đầu tư nước ngoài chiếm trên dưới 75% và chiếm hoàn toàn xuất siêu của cả nước. Theo tỷ lệ giữa thu nhập quốc gia (GNI) so với GDP đạt dưới 95%, nghĩa là 5% của tổng số 476 tỷ USD (tương đương với 24 tỷ USD) thuộc sở hữu nước ngoài.
Trong khi đó, về tư duy, sự sai lầm của nhiều người là vẫn cho rằng định hướng xuất khẩu của nền kinh tế là sai lầm, trong khi có nhiều mặt hàng cung đã vượt cầu (còn yếu) của trong nước; trong khi xuất khẩu của khu vực nước ngoài chiếm tỷ trọng lớn và chiếm hoàn toàn xuất siêu, trong khi nền kinh tế còn ở trong tình trạng gia công lắp ráp lớn, giá nhân công rẻ,…
SAI SỐ TRONG TÍNH TOÁN
Chênh lệch (sai số) trong việc tính toán giữa GDP theo phương pháp sản xuất và phương pháp sử dụng còn lớn. Sai số gần như là khó tránh khỏi vì nhiều nguyên nhân khi cân đối (do thời gian, do giá cả, do tồn kho, do tỷ giá,…) còn lớn, theo hướng chủ yếu là tính theo phương pháp sử dụng lớn hơn phương pháp sản xuất. Sai số này sẽ giảm dần trong quá trình hiện đại hóa công nghệ thông tin và sự cẩn trọng hơn về tính toán…
Nội dung đầy đủ của bài viết được đăng tải trên Tạp chí Kinh tế Việt Nam số 26-2025 phát hành ngày 30/06/2025. Kính mời Quý độc giả tìm đọc tại đây:
https://postenp.phaha.vn/tap-chi-kinh-te-viet-nam/detail/1473
