Tăng sức cạnh tranh cho doanh nghiệp Việt từ Hệ thống quản lý carbon

Trước những áp lực mạnh mẽ của biến đổi khí hậu toàn cầu, Hệ thống Quản trị Carbon khu công nghiệp (CarboN Management System – CMS) nổi lên như một xu hướng toàn cầu mới thích ứng với các hiệp định quốc tế.

Trước những áp lực mạnh mẽ của biến đổi khí hậu toàn cầu, Hệ thống Quản trị Carbon khu công nghiệp (Carbon Management System – CMS) nổi lên như một xu hướng toàn cầu mới thích ứng với các hiệp định quốc tế như: Paris Agreement (2015), Net Zero 2050, COP26/COP28 thúc đẩy doanh nghiệp giảm phát thải carbon, EU Carbon Border Adjustment Mechanism (CBAM) áp thuế carbon với hàng hóa nhập khẩu, buộc doanh nghiệp xuất khẩu phải đo lường & quản lý carbon.

Trên quy mô toàn cầu, CMS sẽ trở thành bắt buộc với doanh nghiệp niêm yết (theo IFRS S2, CSRD) đồng thời tăng cường các chính sách thuế liên quan đến Carbon (ETS carbon pricing) ở các nước đang phát triển. Những yêu cầu khác như: Yêu cầu từ chuỗi cung ứng toàn cầu: Các tập đoàn đa quốc gia (Apple, Nike, Samsung) yêu cầu nhà cung ứng đo lường & giảm phát thải carbon để duy trì hợp đồng. Ví dụ: Doanh nghiệp dệt may Việt Nam xuất khẩu sang EU phải tuân thủ CBAM (Thuế carbon biên giới) từ 2026.

Yêu cầu về tiêu chuẩn báo cáo bắt buộc: Các công ty niêm yết hoặc có vốn FDI cần áp dụng IFRS S2, TCFD để công bố rủi ro khí hậu. Yêu cầu về tiết kiệm chi phí:CMS giúp tối ưu năng lượng, giảm lãng phí nguyên liệu (ví dụ: Ngành thép, xi măng có thể giảm 15–20% chi phí nhờ tái chế nhiệt thải). Nhật Bản & Hàn Quốc dẫn đầu với chính sách thuế carbon(carbon pricing), trong đó các tập đoàn như Toyota, Samsung đã áp dụng CMS để đạt Net Zero 2050. Singapore & Thái Lan đã thí điểm hệ thống ETS (Emissions Trading System). Indonesia và Malaysia tập trung vào CMS trong lĩnh vực dầu khí, nông nghiệp.

Chính phủ Ấn Độ đã thúc đẩy Carbon Credit Trading Scheme (CCTS) từ 2023. Trung Quốc đi đầu trong việc triển khai những chính sách mạnh mẽ hỗ trợ tối đa cho các doanh nghiệp chuyển đổi mô hình sản xuất kinh doanh hướng đến trung hòa carbon của Trung Quốc vào năm 2060. Hiện nay, Trung Quốc là quốc gia tiên phong quản lý carbon Khu công nghiệp với những chiến lược đầu tư các dự án carbon offset tại ASEAN, châu Phi.

Tạp chí Kinh tế Môi trường đã có bài phỏng vấn TS Bùi Thị Thanh Hương, CEO VNU Greentech Spin-off, một doanh nghiệp khởi nguồn của Đại học Quốc gia Hà Nội.

TS Bùi Thị Thanh Hương.

TS Bùi Thị Thanh Hương.

Áp lực quốc tế buộc doanh nghiệp phải tiếp cận CMS

Thưa TS Bùi Thị Thanh Hương, bà có thể cho biết những yêu cầu nào từ đối tác quốc tế buộc các doanh nghiệp Việt cần điều chỉnh mục tiêu để tiếp cận đến CMS?

TS Bùi Thị Thanh Hương: Mỗi quốc gia, mỗi một khu vực lại có yêu cấu đặc thù, song sự ra đời của CMS tại Việt Nam bắt đầu từ những các tiêu chuẩn quản lý carbon quốc tế như ISO 14064, GHG Protocol, hay các công cụ đo lường carbon như Carbon Trust Footprinting, CDP,... đã trở thành chuẩn mực toàn cầu cho doanh nghiệp và khu công nghiệp.

Những yêu cầu khác như: Yêu cầu từ chuỗi cung ứng toàn cầu: Các tập đoàn đa quốc gia (Apple, Nike, Samsung) yêu cầu nhà cung ứng đo lường & giảm phát thải carbon để duy trì hợp đồng. Ví dụ: Doanh nghiệp dệt may Việt Nam xuất khẩu sang EU phải tuân thủ CBAM (Thuế carbon biên giới) từ 2026.

Yêu cầu về tiêu chuẩn báo cáo bắt buộc: Các công ty niêm yết hoặc có vốn FDI cần áp dụng IFRS S2, TCFD để công bố rủi ro khí hậu. Yêu cầu về tiết kiệm chi phí: CMS giúp tối ưu năng lượng, giảm lãng phí nguyên liệu (ví dụ: Ngành thép, xi măng có thể giảm 15–20% chi phí nhờ tái chế nhiệt thải).

Yêu cầu về tạo nguồn thu mới: Bán tín chỉ carbon (Ví dụ: Tập đoàn TH true MILK thu 2 triệu USD/năm từ dự án carbon farming). Yêu cầu thu hút vốn ESG: Quỹ đầu tư toàn cầu (BlackRock, Temasek) ưu tiên doanh nghiệp có CMS để rót vốn.

Vậy những rủi ro nào mà doanh nghiệp Việt Nam sẽ gặp phải nếu không tiếp cận CMS, thưa bà?

Doanh nghiệp sẽ gặp phải rủi ro thuế carbon: Nếu không có CMS, DN xuất khẩu sang EU có thể chịu thuế 30–50 EUR/tấn CO₂ (theo CBAM). Đồng thời, các hoạt động của doanh nghiệp bị đình trệ do gián đoạn chuỗi cung ứng. Thậm chí các đối tác quốc tế có thể ngừng hợp tác với DN không đáp ứng tiêu chuẩn ESG.

Ví dụ như Vinamilk Việt Nam nhờ áp dụng CMS giúp giảm 25% lượng carbon từ 2020–2023, đồng thời xuất khẩu vào thị trường khó tính như Nhật Bản. Ví dụ như Hòa Phát đã đầu tư hệ thống quản lý carbon để chuẩn bị cho ETS Việt Nam, tránh phí phát thải lên tới hàng trăm tỷ đồng/năm.

Trên quy mô toàn cầu, CMS sẽ trở thành bắt buộc với doanh nghiệp niêm yết.

Trên quy mô toàn cầu, CMS sẽ trở thành bắt buộc với doanh nghiệp niêm yết.

Vắng bóng chính sách hỗ trợ tiếp cận CMS đạt chuẩn quốc tế

Theo bà, những chính sách hỗ trợ của Việt Nam dành cho các doanh nghiệp để cận với CMS đạt chuẩn quốc tế có ý nghĩa then chốt như thế nào?

“Vắng bóng những chính sách hỗ trợ các doanh nghiệp Việt Nam tiếp cận với hệ thống quản lý carbon khu công nghiệp đạt chuẩn quốc tế” là một vấn đề vừa mang tính cấp thiết, vừa phản ánh một khoảng trống trong hệ sinh thái phát triển bền vững tại Việt Nam, đặc biệt trong bối cảnh các cam kết giảm phát thải và chuyển đổi xanh đang được thúc đẩy mạnh mẽ.

Việt Nam hướng đến NETZERO vào 2050 và bắt đầu thí điểm sàn giao dịch tín chỉ carbon, bao gồm việc triển khai cơ chế trao đổi, bù trừ tín chỉ carbon trong các lĩnh vực tiềm năng và nâng cao nhận thức về phát triển thị trường carbon vào năm 2025 và chính thức vận hành sàn giao dịch tín chỉ carbon, kết nối với thị trường khu vực và quốc tế vào năm 2028.

Các doanh nghiệp Việt nên đầu tư sớm vào CMS để tránh rủi ro thuế carbon và nâng cao năng lực cạnh tranh toàn cầu. Luật Bảo vệ Môi trường 2020 (Điều 91, 92, 139) về giảm phát thải khí nhà kính, bảo vệ tầng ozone và phát triển thị trường carbon đã bước đầu đặt nền móng cho Thị trường tín chỉ Carbon tại Việt Nam. Đến năm 2027, khung pháp lý quản lý tín chỉ carbon và phép thải GHG cơ bản được hoàn thiện và bắt đầu thí điểm trao đổi tín chỉ carbon và triển khai sàn giao dịch carbon từ 2025.

Quyết định số 232/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ: Phê duyệt Đề án Thành lập và phát triển thị trường các-bon tại Việt Nam, đã phê duyệt “Lộ trình phát triển thị trường carbon”: ba giai đoạn: Giai đoạn chuẩn bị (trước 6/2025): hoàn thiện pháp luật, hạ tầng, hệ thống MRV. Giai đoạn thí điểm (6/2025 12/2028): cấp miễn phí phát thải cho các ngành chủ chốt, cho phép doanh nghiệp dùng cả CCC (Certified Carbon Credits) từ các cơ chế quốc tế như CDM, JCM, Article 6.4 để bù lượng phát thải trong giới hạn cho phép. Và giai đoạn chính thức (từ 2029): mở rộng diện bao phủ, phương thức đấu giá, hoàn thiện hạ tầng và chuẩn thị trường.

Tại Trung Quốc, các doanh nghiệp mới đạt chứng nhận ESG trong năm sẽ được thưởng một lần là 100.000 nhân dân tệ, các khu công nghiệp, các nhà máy có thực hiện quản lý carbon khu công nghiệp sẽ được nhận thưởng hoặc ưu đãi thuế.

Có thể thấy, giải pháp công nghệ và công tác hỗ trợ đào tạo nhân lực là các vấn đề trọng yếu, cần có quá trình bài bản để giúp doanh nghiệp Việt Nam tiếp cận với CMS đạt chuẩn quốc tế. Bà đánh giá thế nào về quá trình này tại Việt Nam?

Bên cạnh việc ban hành chính sách khuyến khích bắt buộc xây dựng hệ thống quản lý carbon ở cấp khu công nghiệp (gắn với Luật Bảo vệ môi trường và cam kết Net Zero), các doanh nghiệp cần tìm kiếm các nguồn tài trợ hoặc đồng tài trợ thí điểm các mô hình khu công nghiệp sinh thái hoặc khu công nghiệp phát thải thấp. Các doanh nghiệp cần phát triển nền tảng kỹ thuật số quản lý carbon chung, giúp doanh nghiệp vừa và nhỏ dễ tham gia. Theo đó, nhân sự tham gia vào quá trình này cần được đào tạo chuyên sâu và hướng dẫn kỹ thuật, xây dựng đội ngũ kiểm toán carbon độc lập. Đồng thời thiết lập cơ chế hợp tác công – tư (PPP) để tăng cường đầu tư vào công nghệ đo lường và quản lý carbon.

Vì vậy trước xu hướng và nhu cầu sử dụng Quản lý Carbon khu Công nghiệp, Việt nam đang thiếu nhân lực, cán bộ chuyên gia có đủ kiến thức và trình độ để đáp ứng chuyển đổi số mạnh mẽ trong Khu Công nghiệp hướng đến mục tiêu Zero Carbon Khu Công nghiệp và số hóa carbon cho Khu công nghiệp và các doanh nghiệp. Đại học Quốc gia Hà Nội, với kinh nghiệm nhiều năm nghiên cứu và đi đầu trong lĩnh vực này có thể tiên phong trong hoạt động đào tạo để đào tạo ra các nguồn nhân lực để thúc đẩy các hoạt động quản trị phát thải carbon ở doanh nghiệpluận giải tại sao cần phải CMS tại Việt Nam.

VNU Greentech Spin-off là doanh nghiệp khoa học công nghệ trực thuộc Đại học Quốc gia Hà Nội, có trụ sở đặt tại tầng 5 Tòa nhà The NINE Phạm Văn Đồng, Cầu Giấy, Hà Nội chuyên tổ chức các khóa đào tạo tập huấn được cấp chứng chỉ bởi các tổ chức uy tín quốc tế về kế toán carbon, phân tích carbon, lập báo cáo ESG và báo cáo xin cấp chứng nhận đạt các tiêu chuẩn quản lý carbon quốc tế như ISO 14064, GHG Protocol.... Các khóa đào tạo sẽ bắt đầu triển khai tại Hà Nội và Thành Phố Hồ Chí Minh từ quý 3/2025.

PV

Nguồn Kinh tế Môi trường: https://kinhtemoitruong.vn/tang-suc-canh-tranh-cho-doanh-nghiep-viet-tu-he-thong-quan-ly-carbon-99816.html
Zalo