Tăng cường hiệu quả quản lý và đầu tư vốn Nhà nước tại doanh nghiệp
Luật Quản lý và đầu tư vốn Nhà nước tại doanh nghiệp gồm 8 chương 59 điều, quy định việc đầu tư vốn nhà nước vào doanh nghiệp, quản lý vốn nhà nước tại doanh nghiệp.
Tiếp tục Kỳ họp thứ 9, Quốc hội khóa XV, sáng 14/6, Quốc hội đã thông qua dự án Luật Quản lý và đầu tư vốn nhà nước tại doanh nghiệp.
Với 440/451 đại biểu Quốc hội (ĐBQH) tham gia biểu quyết tán thành (chiếm 92,05% tổng số ĐBQH), Quốc hội đã thông qua Luật Quản lý và đầu tư vốn nhà nước tại doanh nghiệp. Luật sẽ có hiệu lực thi hành từ 1/8/2025.

Đại biểu Quốc hội biểu quyết thông qua dự án Luật Quản lý và đầu tư vốn nhà nước tại doanh nghiệp.
Trước khi tiến hành biểu quyết, Chủ nhiệm Ủy ban Kinh tế và Tài chính Phan Văn Mãi đã trình bày báo cáo giải trình, tiếp thu, chỉnh lý dự thảo luật dựa trên ý kiến đóng góp của các vị ĐBQH tại phiên thảo luận ngày 13/5 và ý kiến của Chính phủ. Theo đó, nhiều vấn đề lớn đã được Ủy ban Thường vụ Quốc hội tiếp thu, giải trình và chỉnh lý.
Có ý kiến đề nghị bổ sung doanh nghiệp nhà nước theo quy định của Luật Doanh nghiệp, bao gồm: tổ chức tín dụng do Nhà nước nắm giữ từ 50% vốn điều lệ trở lên (không bao gồm bảo hiểm tiền gửi và ngân hàng chính sách); doanh nghiệp có vốn đầu tư của tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam. Chủ nhiệm Ủy ban Kinh tế và Tài chính Phan Văn Mãi cho biết, vốn điều lệ của các doanh nghiệp thuộc cơ quan Đảng, Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội - nghề nghiệp được Nhà nước giao nhiệm vụ khi thành lập không chỉ bao gồm vốn nhà nước mà còn sử dụng nhiều nguồn vốn khác. Do đó, việc đưa nhóm doanh nghiệp này vào phạm vi điều chỉnh của dự thảo luật sẽ không bảo đảm tính thống nhất với mục tiêu và đối tượng điều chỉnh của luật.
Tuy nhiên, nhằm tạo cơ sở pháp lý cho hoạt động đầu tư, quản lý vốn của các tổ chức nêu trên, dự thảo luật đã quy định tại Điều 56 và giao Chính phủ quy định chi tiết. Ngoài ra, để bảo đảm thống nhất trong hệ thống pháp luật, Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã chỉ đạo các cơ quan rà soát, chỉnh lý, bổ sung nội dung “đầu tư, hỗ trợ” của Nhà nước đối với Ngân hàng Hợp tác xã Việt Nam tại Điều 57 của dự thảo luật.

Với đa số đại biểu tán thành, Luật Quản lý và đầu tư vốn nhà nước tại doanh nghiệp sẽ có hiệu lực thi hành từ 1/8/2025.
Về ý kiến đề nghị xem xét không cho phép toàn bộ doanh nghiệp nhà nước đầu tư bất động sản mà chỉ cho phép doanh nghiệp lớn của nhà nước được đầu tư lĩnh vực này, Ủy ban Thường vụ Quốc hội cho rằng, doanh nghiệp có vốn nhà nước được thực hiện các hoạt động kinh doanh phù hợp với quy định của pháp luật và định hướng của Nhà nước với vai trò của chủ sở hữu thông qua điều lệ, chiến lược phát triển của doanh nghiệp.
Do đó, việc quy định không cho phép toàn bộ doanh nghiệp nhà nước đầu tư bất động sản, mà chỉ cho phép một số doanh nghiệp nhà nước quy mô lớn được thực hiện hoạt động đầu tư này sẽ làm hạn chế quyền tự chủ trong hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, không phù hợp với chủ trương của Đảng về đổi mới, nâng cao hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp nhà nước. Vì vậy, Ủy ban Thường vụ Quốc hội không quy định nội dung này trong dự thảo luật.
Về nội dung huy động vốn, cho vay vốn, thể chế hóa Nghị quyết số 12-NQ/TW, quy định cho phép doanh nghiệp được cho công ty do doanh nghiệp nắm trên 50% vốn điều lệ vay vốn sẽ góp phần tăng cường tính tự chủ, tự chịu trách nhiệm của doanh nghiệp; tạo điều kiện cho doanh nghiệp do doanh nghiệp thành lập hoặc đầu tư vốn có thể tiếp cận được nguồn vốn hợp lý, có thêm nguồn lực để phát triển. Đồng thời, dự thảo luật giao Chính phủ quy định chi tiết điều kiện bảo lãnh, điều kiện cho vay nhằm bảo đảm quản lý chặt chẽ, kiểm soát rủi ro.
Như vậy, dự thảo luật đã cơ bản bao quát các vấn đề ĐBQH quan tâm, hài hòa giữa quyền tự chủ trong hoạt động sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp và yêu cầu giám sát, quản lý của Nhà nước. Ủy ban cũng đề nghị Chính phủ khi xây dựng văn bản quy định chi tiết cần lưu ý quy định rõ về điều kiện, mục đích sử dụng vốn vay, đánh giá hiệu quả sử dụng vốn vay, biện pháp bảo đảm khoản vay, cơ chế giám sát, kiểm tra trong quá trình cho vay và thu hồi nợ; bảo đảm các khoản vay được sử dụng đúng mục đích, có khả năng thu hồi đầy đủ, đúng hạn.

































