Tản mạn chuyện làng Giá

Tôi vẫn nhớ khoảng đầu năm chín mươi của thế kỷ trước, mỗi lần đến làng Giá vào dịp sắp tết quanh giếng lúc nào cũng nườm nượp người gánh nước, sân giếng là nơi rửa lá dong; hoặc như vào ngày hè nắng nóng, ngang qua các giếng thấy có người múc nước, liền dừng lại mượn gầu kéo xô nước lên, vốc nước lên miệng, uống thấy mát ngọt. Uống xong còn vục nước xoa lên mặt thấy vô cùng sảng khoái. Nhưng bây giờ, mỗi khi có dịp đi qua thấy giếng vắng vẻ, ít thấy người ra giếng lấy nước.

Giếng cổ và ngôi miếu ở làng Giá

Giếng cổ và ngôi miếu ở làng Giá

Ở làng quê thời trước, hình ảnh chiếc giếng làng có lẽ chẳng có gì xa lạ với mọi người dân. Làng ít giếng thì cũng phải có tối thiểu một cái, làng nhiều giếng thì có đến vài ba cái. Đó là cái giếng đất, cái giếng ấy giống như một cái ao xinh xinh, nước rất trong, cung cấp nước sinh hoạt cho cả làng, được dân làng giữ gìn rất cẩn thận và thường được làm ở bên cạnh đình làng. Bởi thế chiếc giếng cùng với hình ảnh sân đình và cây đa làm thành bộ ba biểu tượng của làng quê Việt Nam. Bộ ba “cây đa, giếng nước, sân đình” không biết từ khi nào đã ăn sâu vào trong tâm thức của người dân Việt và trở thành một không gian sinh hoạt của cộng đồng; chẳng những thế, cái giếng làng ấy còn là nơi hò hẹn của không ít nam thanh nữ tú trong làng. Nó là chứng nhân của biết bao đôi lứa. Nhưng những cái giếng của người Cổ Sở, tên Nôm gọi là kẻ Giá, làng Giá Lụa (gồm hai làng Yên Sở và Đắc Sở, ở huyện Hoài Đức trước đây, nay là xã Dương Hòa – Thành phố Hà Nội) tôi kể dưới đây không phải cái giếng đất trong bộ ba biểu tượng thường gặp ở làng quê như nói ở trên mà là những cái giếng khơi. Những cái giếng này có từ hàng ngàn năm nay, được đào ở khắp làng. Thoạt nhìn những cái giếng ấy ta tưởng như không có gì đáng nói nhưng kỳ thực nó đang chứa đựng trong mình những bí ẩn khiến bao đời nay ngươi ta không khỏi loay hoay tìm cách kiến giải. Và ở làng Giá không chỉ có chuyện cái giếng độc đáo, bí ẩn mà còn có nhiều chuyện khác cũng rất thú vị như chuyện về cây dừa, chuyện về ngôi đình và chuyện rước Giá.

Xin được bắt đầu từ chuyện cây dừa và thế địa hiểm. Làng Giá, xưa còn được gọi là làng Dừa, vì ở trong làng trồng rất nhiều dừa. Đây chính là quê hương của một vị danh tướng nổi tiếng nhà Tiền Lý - Lý Phục Man. Người ta kể rằng, khi xưa tướng quân Lý Phục Man đánh bại giặc Lâm Ấp xâm lược nên đã mang tù binh Chăm về giam giữ ở vùng này. Những tù binh Chiêm Thành khi đến đây đã mang theo giống dừa của phương Nam để trồng cho đỡ nhớ quê nhà. Do hợp thủy nhưỡng, lâu dần, những cây dừa Chăm được người bản địa nhân giống và phát triển mạnh mẽ như rừng. Rừng dừa này không chỉ có ở một kẻ Giá mà còn lan sang, phát triển cả ở kẻ Sấu kề bên. Và cũng đã có một thời rừng dừa ở vùng Sấu, Giá hiện lên vô cùng duyên dáng và thơ mộng cùng dòng sông Đáy. Trước đây, có thời ngang qua nơi này, nếu không để ý thì người ta ngỡ mình đang ở xứ dừa phương Nam xa xôi nào đó. Chẳng thế năm 1972, làng Dừa này đã được đạo diễn Hải Ninh chọn làm bối cảnh để quay bộ phim “Vĩ tuyến 17 ngày và đêm”.

Cũng lại ngày xưa, cách đây hàng ngàn năm, khi ấy đi lên mạn Đoài (phía Tây) chưa có đường quốc lộ 32 như bây giờ. Con đường huyết mạch từ Thăng Long đến Sơn Tây và các lộ, các trấn miền Tây Bắc là con đường thiên lý đi qua Cầu Giấy tới Diễn, rẽ sang Canh rồi thẳng qua kẻ Giá để đi lên. Đấy là đường bộ. Còn theo đường thủy, người ta có thể chèo thuyền từ bến đò Cổ Sở ở bến Mã Tân bên sông Đáy để ra sông Hồng, ở cách đó không xa. Từ sông Hồng thuyền có thể ngược lên miền Tây Bắc hoặc xuôi về kinh kì kẻ Chợ. Và cũng từ bến Mã Tân ấy người ta cũng có thể lên thuyền xuôi dòng sông Đáy qua xứ Nam đi ra vịnh Bắc Bộ ở cửa Đại An. Kể qua như thế để chúng ta có thể hình dung thấy được cái vị trí chiến lược đắc địa của làng Giá thủa xưa. Chẳng thế mà từ xưa kẻ Giá nổi tiếng trong vùng không phải chỉ là nơi tằm tang canh cửi trù phú (nên có tên gọi là Giá Lụa) mà còn được biết đến là một nơi trên bến dưới thuyền tấp nập. Do cái vị trí như thế mà các yếu tố chiến lược về kinh tế, quân sự của kẻ Giá luôn gắn liền với kinh thành Thăng Long, theo những thăng trầm của đất nước.

Có thể nói, không có binh biến nào ở kinh đô Thăng Long mà không liên quan ít nhiều đến kẻ Giá. Điển hình như cuộc kháng chiến chống quân Nguyên - Mông của nhà Trần và cuộc kháng chiến chống quân xâm lược nhà Minh của nghĩa quân Lam Sơn. Sách “Đại Việt sử ký toàn thư” có ghi lại rằng, thời nhà trần, lần thứ nhất vào đầu năm Mậu Ngọ (1258), quân Nguyên - Mông tiến đến làng Cổ Sở, dân làng đã đánh cho bọn xâm lược một trận tơi bời, xác giặc chất đầy đồng, giặc phải bỏ chạy tan tác; lần thứ hai vào tháng Giêng năm Ất Dậu (1258), khi giặc đến làng Cổ Sở, dân làng đốt rơm rạ cho khói mù mịt rồi từ các ngõ xóm xông ra giết giặc. Chúng chết như ngả rạ và bỏ chạy toán loạn; lần thứ ba vào tháng Chạp năm Đinh Hợi (1287), người Cổ Sở cũng lại anh dũng chống giặc. Quân Nguyên - Mông không thể nào xâm phạm được cái hương ấp nhỏ bé và quật cường này.

Đến thời kỳ kháng chiến chống quân Minh, tháng 11 năm Bính Ngọ (1426), một bộ phận quân Minh chiếm đình Giá làm sở chỉ huy, dựng doanh trại khắp bãi làng Cổ Sở, chúng bắc cầu phao qua sông Đáy, cắm hai chốt tiền tiêu ở làng Giá và làng Thầy (Quốc Oại), đêm mùng 6 tháng 11, dân Cổ Sở phối hợp với nghĩa quân Lam Sơn do Lý Triệu chỉ huy đã bí mật tấn công trại giặc, đốt kho lương khiến chúng phải tháo chạy về Ninh Kiều (Chương Mỹ) và bị phục kích tiêu diệt toàn bộ. Sơ bộ thế để mọi người hình dung được về “Cổ Sở danh tam hiểm/ Đoài phương tĩnh nhất khu” (Cổ Sở là một trong ba nơi hiểm yếu của nước ta. Một khu đất vững vàng yên tĩnh của xứ Đoài) như câu đối của cụ Trạng Bùng - Phùng Khắc Khoan từng đề tặng. Ba nơi hiểm yếu của Đại Việt từng được dân gian truyền tụng là “Thứ nhất Cổ Bi, thứ nhì Cổ Loa, thứ ba Cổ Sở”. Đây chính là ba vùng đất thiêng, ngoài Cổ Sở ra, Cổ Bi ở huyện Gia Lâm (trước đây), Cổ Loa ở huyện Đông Anh (trước đây).

Một trong những giếng cổ ở làng Giá

Một trong những giếng cổ ở làng Giá

Làng Giá, xưa nay nổi tiếng thiên hạ có đám rước đông vui. Thời trước, dân gian truyền nhau rằng: “Bơi Đăm, rước Giá, hội Thầy”. Bơi Đăm là lễ hội thi bơi thuyền ở làng Đăm (Quận Bắc Từ Liêm trước đây), hội Thầy là hội leo núi mùa Xuân ở Sài Sơn (huyện Quốc Oai trước đây). Đây là những lễ hội nổi tiếng đông vui. Còn rước Giá là một nghi lễ trong lễ hội tưởng nhớ thành hoàng làng Giá, Đức thánh Lý Phục Man, một người con của quê hương, một vị danh tướng lẫy lừng của dân tộc có công lao to lớn giúp Lý Bí dựng nên nước Vạn Xuân, một nhà nước độc lập đầu tiên trong lịch sử. Lễ hội làng Giá được tổ chức từ ngày mùng 10 đến hết ngày 12 tháng 3 âm lịch hàng năm. Trung tâm của rước Giá là nghi lễ Nghiềm quân. Trước khi thực hiện nghi lễ người ta tiến hành tế cờ một cách trang trọng tại sân quán. Sau tế cờ là trò diễn Nghiềm quân. Đây là nghi lễ quan trọng và linh thiêng nhất trong hội làng Giá. Để tổ chức rước Giá các bô lão trong làng phải huy động đến gần sáu trăm nam giới, trong đó phần lớn là thanh, thiếu niên. Nghiềm quân là hình thức tái hiện thế trận mà tướng quân Lý Phục Man đã tập luyện cho quân lính của mình để đánh tan giặc Lương và quân Lâm Ấp xâm lược. Khi tổ chức Nghiềm quân tất cả đội hình được sắp xếp theo trật tự hình xoáy trôn ốc. Người đóng vai tướng quân cầm lá cờ đại đứng giữa vòng tròn trôn ốc chạy phá ra ngoài theo hướng ngược chiều kim đồng hồ tượng trưng cho cách phá vòng vây. Xem Nghiềm quân người ta sẽ nhận ra đây là một trò diễn độc đáo, hiếm có. Ý nghĩa ban đầu của trò diễn này đến nay không còn nguyên vẹn nữa, nó đã bị lớp bụi thời gian che đậy và bồi thêm nhiều lớp nghĩa văn hóa - lịch sử mới. Chính vì vậy nó ẩn chứa trong mình nhiều lớp trầm tích văn hóa khá thú vị. Chẳng hạn, tiếng la “Lai ré hè ré” của các em bé trong đội tổng cờ là dấu vết của tục hèm cầu mưa. Trò diễn Nghiềm quân với màn phá vây chạy ngược chiều kim đồng hồ cũng là ánh xạ của tục thờ mặt trời. Và cuối cùng là lớp nghĩa tín ngưỡng thành hoàng - sự tôn thờ người anh hùng dân tộc Lý Phục Man của nhân dân làng Giá. Hai lớp nghĩa ban đầu là lớp tín ngưỡng dân gian thể hiện khát vọng mưa thuận gió hòa, nhân khang vật thịnh của các cư dân nông nghiệp. Những lớp nghĩa này đã bị khuất lấp, ngày nay không phải ai cũng nhận ra được. Lớp nghĩa thứ ba - tín ngưỡng thành hoàng, hiện đang tồn tại phổ biến.

Nhưng độc đáo và bí ẩn nhất ở làng Giá phải kể đến ngôi đình cùng những chiếc giếng khơi. Sự độc đáo và bí ẩn ấy từng được truyền tụng qua câu ca “Đình không xà làng bảy mươi ba giếng”. Đình không xà chính là Quán Giá, nơi thờ tướng quân Lý Phục Man. Nghe kể ngôi đình này ngày xưa rất lớn, thuộc hàng nhất nhì trong nước, diện tích ngôi đình đến năm trăm mét vuông, chiều dài ba mươi tư mét, chiều rộng xấp xỉ mười bốn mét. Ngôi đình có năm gian hai trái. Để làm ngôi đình các cụ phải sử dụng năm mươi sáu chiếc cột gỗ lim, trong đó có nhiều cột to, đường kính lên tới hơn một mét, có cột cao tới năm mét rưỡi, cột thấp cũng khoảng bốn mét. Đình rộng, cao nhưng không có một xà dọc, xà ngang. Toàn bộ mái đình với những kẻ, câu, hoành, rui vừa to vừa dày đều được đặt trên các cột gỗ. Ngoài ra trang trí trong đình cũng được chạm khắc rất đẹp. Ngôi đình này được người ta phỏng đoán làm vào khoảng đầu thế kỷ XI. Tuy nhiên ngôi đình ngàn năm tuổi này chỉ còn trong ký ức và các tư liệu ghi chép.

Người ta kể, trận càn ngày 2 tháng 4 năm 1947, Thực dân Pháp đã đốt cháy, tiêu hủy toàn bộ ngôi đình. Ngoài ngôi đình ra, bảy mươi ba chiếc giếng khơi hàng ngàn năm tuổi cũng là một chuyện không chỉ độc đáo mà còn chứa đựng không ít điều bí ẩn cho đến tận ngày nay. Cách đây khoảng một ngàn năm, ở một làng, có bảy mươi ba cái giếng khơi (mỗi giếng có đường kính khoảng từ mét ba đến mét rưỡi, sâu từ năm đến sáu mét, dưới đáy có lót tấm gỗ lim nguyên phiến dày khoảng hai mươi phân, xung quanh được kè bằng đá xanh, ước mỗi giếng phải sử dụng từ mười đến mười hai khối đá) ngỡ như không tưởng nhưng lại có thực. Hiếm có làng nào trong vùng, trong tỉnh có được một số lượng giếng nhiều được như vậy. Những giếng khơi này, cách đây khoảng năm chục năm, có nghĩa là trước khi có giếng khoan, có nước máy thì hẳn vẫn là nơi cung cấp nguồn nước hiện đại nhất, an toàn nhất cho sinh hoạt của dân làng. Cho đến nay, sự xuất hiện và mục đích của bảy mươi ba chiếc giếng khơi này vẫn đang được xem là một ẩn số mà người làng Giá không ngừng tìm cách kiến giải.

Đình Quán Giá

Đình Quán Giá

Có người bảo rằng, thời Bắc thuộc, bọn xâm lược đóng quân ở đây nhiều nên chúng đào nhiều giếng để lấy nước phục vụ sinh hoạt. Ý kiến này khó thuyết phục vì nếu bảo giặc đóng quân ở đây nhiều thì lấy gì làm minh chứng. Hơn nữa nếu có đóng quân ở đây thì cũng chỉ cần đào vài ba cái là đủ nhưng đây lại đào khắp làng. Chẳng lẽ giặc lại dải quân ra khắp làng. Điều quan tâm nữa là giặc ở đây bao lâu mà có thể làm được những chiếc giếng công phu đến vậy. Nếu ở đông và lâu, chắc chắn không chính sử lưu thì dã sử cũng truyền cho nhau nghe. Nhưng cả chính sử và dã sử không nhắc gì đến sự kiện này. Có người lại bảo, người làng Giá từ xưa văn minh nên đào nhiều giếng để được dùng nước sạch. Ý kiến này hay nhưng cũng khó thuyết phục. Bởi vì đặt trong hoàn cảnh cách đây hàng ngàn năm, khi trình độ nhận thức và điều kiện kinh tế của toàn dân nếu không phát triển, nếu không phải là một phong trào có tổ chức và phải là một phong trào xuất phát từ một nhân thức “đột biến” thì không thể làm được một cách đồng bộ, một cách hoàn hảo như thế được.

Có nhiều người thì tán thành với thuyết cho rằng Cao Biền, tên quan cai trị của nhà Đường kiêm nghề địa lý thấy đất làng Giá linh thiêng nên cho đào nhiều giếng để phá long mạch. Thuyết này có vẻ huyền bí nhưng cũng không đủ cơ sở hợp lý. Thứ nhất, nếu biết là Cao Biền phá long mạch thì chắc hẳn bao đời nay dân làng Giá sẽ phải tìm cách phá bỏ. Thứ hai, cứ cho là Cao Biền trấn đi thì tại làm sao làng Giá không bị tàn suy. Trái lại làng Giá rất phát triển, thời nào cũng có nhân tài đóng góp cho đất nước (khoa thi năm Kỷ Sửu – 1529 có Tiến sĩ đệ Nhị giáp Nguyễn Chiêu Khánh; khoa thi năm Quý Sửu – 1733 có Tiến sĩ đệ Tam giáp Trần Danh Tiêu …). Còn nữa là ý kiến của cụ đồ Nguyễn Bá Hân, người đã dày công nghiên cứu văn hóa làng Giá thì cho rằng đây là chính sách đồng hóa của kẻ giặc. Chúng mị dân (làm giếng cung cấp nước sạch cho dân) đồng thời cũng là cách để dò la vào tận hang cùng ngõ hẻm của làng Giá tìm người hiền tài nhằm trừ khử phòng hậu họa. Xem ra ý kiến này khá dung hòa nhưng đó cũng chỉ là một giả thiết.

Tôi đến làng Giá từ thời nhỏ, nay vẫn hay đến, mỗi khi đi qua những giếng cổ tôi thường chú ý đến ngôi miếu nhỏ ở cạnh giếng. Chính những ngôi miếu này đã gợi cho tôi một kiến giải khác. Những giếng cổ này bên cạnh công năng như vốn có, lấy nước sạch phục vụ sinh hoạt cho cộng đồng (cư dân trong xóm, trong ngõ) thì còn có chức năng tín ngưỡng. Ngược dòng lịch sử ta thấy, từ xưa, loài người đã phát hiện ra nước và lửa là hai thứ không thể thiếu trong sự tồn tại và phát triển. Đối với nền văn hóa nông nghiệp thì nước càng quan trọng. Nước đem lại sự sống cho con người và mọi vật. Nhờ có nước mà vạn vật sinh sôi. Bởi thế tín ngưỡng đa thần với quan niệm vạn vật hữu linh của người Việt xưa thì nước đã được hình tượng hóa thành thần suối, thần sông, thần giếng. Và người ta đã tôn thờ nước để tri ân và cả để kỳ vọng.

Ngày nay, tục cúng giếng vào ngày đầu năm hay cúng thần sông, thần suối vẫn còn tồn tại ở nhiều nơi. Làng Giá thời xưa là một trong những làng Việt cổ, nghề chính là trồng lúa. Cho nên cùng với tín ngưỡng thờ mặt trời (có thể thấy trong nghi lễ Nghiềm quân) thì tín ngưỡng thờ nước cũng rất được cư dân rất trú trọng. Những chiếc giếng khơi cổ kia được làm qua nhiều thời gian khác nhau nhưng chung một thiết kế. Một thiết kế có thể được rút kinh nghiệm trong quá trình làm và hoàn thiện dần. Khi đã có một thiết kế chuẩn thì người ta truyền cho nhau, bắc chước nhau. Bởi vậy tôi nghĩ những giếng cổ làng Giá có thể được ra đời với quá trình như thế và còn có cả mục đích thờ thần nước.

Trải theo thời gian, làng Giá bây giờ không còn đủ bảy mươi ba giếng nữa. Theo thống kê của cụ đồ Hân thì chỉ còn ba mươi mốt chiếc giếng (Yên Sở còn hai mươi sáu cái và Đắc Sở còn năm cái). Nhìn những chiếc giếng cổ làng Giá tôi lại nhớ đến giếng cổ Bá Lễ ở Hội An (Quảng Nam). Giếng cổ làng Giá và giếng Bá Lễ ở Hội An có tuổi đời cũng ngang nhau. Khác nhau, có chăng chỉ là nguyên liệu và hình dáng. Thành giếng Bá Lễ quấn gạch vồ và hình vuông. Giếng làng Giá xếp bằng đá và hình tròn. Giếng ở cổ ở Hội An và giếng cổ làng Giá đều là những di sản văn hóa đặc biệt của tiền nhân để lại nhưng số phận những giếng này ở hai nơi rất khác nhau. Một nơi được công nhận là di tích và bảo vệ cẩn thận, một bên là dân làng tự ý thức để bảo vệ, giữ gìn. Một bên được quảng bá, giới thiệu để mọi người đưa nhau tìm đến chiêm ngưỡng. Một bên ai hay thì biết, còn không phải chịu phận ngậm ngùi, lặng lẽ.

Cũng may, mấy chục giếng cổ còn lại ở làng Giá đã được chính quyền và dân làng kịp thời giữ gìn để con cháu mai sau còn có cơ hội biết đến hình dáng cái nguồn nước xa xưa cùng những mơ ước của tổ tiên. Những ngôi miếu bên giếng giờ cũng đã được sửa khang trang, miệng giếng được đậy lồng hoặc đậy nắp tròn bằng kim loại, mỗi khi dùng, người ta mở nắp dùng gầu múc nước. Người ta che đậy giếng cho rác không rơi xuống giếng, để an toàn cho trẻ con khi chơi bên giếng. Bây giờ cuộc sống ngày càng văn minh và tiện nghi hơn ngày trước nên công năng của giếng cổ làng giá cũng đã ít nhiều bị thay đổi. Thời xưa, giếng là nguồn cung cấp nước cho tất cả dân làng.

Tôi vẫn nhớ khoảng đầu năm chín mươi của thế kỷ trước, mỗi lần đến làng Giá vào dịp sắp tết quanh giếng lúc nào cũng nườm nượp người gánh nước, sân giếng là nơi rửa lá dong; hoặc như vào ngày hè nắng nóng, ngang qua các giếng thấy có người múc nước, liền dừng lại mượn gầu kéo xô nước lên, vốc nước lên miệng, uống thấy mát ngọt. Uống xong còn vục nước xoa lên mặt thấy vô cùng sảng khoái. Nhưng bây giờ, mỗi khi có dịp đi qua thấy giếng vắng vẻ, ít thấy người ra giếng lấy nước. Giếng còn đấy, nước vẫn trong vắt nhưng ít được sử dụng. Nay người ta dùng nước máy sông Đà. Vòi nước được kéo vào tận trong nhà. Sạch sẽ và tiện nghi. Miếu bên giếng có lẽ cũng đã có đổi thay đối tượng được thờ. Không biết có ai còn khấn gọi thần giếng (thần nước) nữa không hay lại thờ các vị thần linh khác. Nghĩ đến giếng Bá Lễ ở Hội An lại thấy thương cho giếng cổ làng Giá. Ước gì rồi sẽ có một ngày nào đó người ta về thăm quan di tích đình Quán Giá rồi cũng lại nô nức hỏi tìm giếng cổ để ngắm nghía, đứng quanh bên giếng chụp hình như du khách chụp ảnh bên giếng Bá Lễ ở thành phố Hội An.

Ước vậy, và mong làng Giá sẽ có nhiều người tìm đến để thêm hiểu về đời sống một thời của làng quê xứ Đoài, một hồn quê của Bắc Bộ, của Việt Nam.

Phan Ngọc Anh

Nguồn VHPT: https://vanhoavaphattrien.vn/tan-man-chuyen-lang-gia-a30190.html
Zalo