Tản mạn bên dòng sông Phó Đáy ở Tân Trào

Thăm lại chiến khu xưa ở nơi thủ đô gió ngàn lần này ta như nghe thấy âm vang của lịch sử gọi về trong gió. Lặng nhìn những căn lán đơn sơ, mộc mạc ẩn mình dưới bóng tre xanh giữa núi rừng tĩnh lặng lòng bỗng dâng trào những nỗi niềm bâng khuâng khó tả. Đâu đó bên dòng sông ta như thấy Bác đang chơi chuyền bóng hay ngồi thả câu hay thong dong dạo thuyền giữa dòng sông bát ngát sao trời.

Dưới tượng đài Bác ở Tân Trào

Dưới tượng đài Bác ở Tân Trào

Sông Phó Đáy là phụ lưu của sông Lô, nằm ở phía bờ tả ngạn. Theo tra cứu địa lý trên Wikipedia thì phụ lưu này có chiều dài hơn một trăm sáu mươi cây số, được bắt nguồn từ vùng núi Tam Tạo thuộc tỉnh Thái Nguyên, đi qua tỉnh Tuyên Quang và hợp vào sông Lô ở tỉnh Phú Thọ, đoạn phía trên cầu Việt Trì, cách khoảng hơn hai trăm mét. Theo dọc hành trình từ miền núi cao Yên Phong về đến miền đất Tổ, dòng sông Phó Đáy chủ yếu đi trên phần đất của tỉnh Tuyên Quang; phần chảy trên đất Tuyên Quang dài tám mươi tư cây số, trên đất Thái Nguyên dài ba mươi sáu cây số, trên đất Phú Thọ hơn bốn mươi cây số. Lạ thay, xứ Tuyên có ba con sông lớn (Sông Lô, sông Gâm, sông Phó Đáy) thì có hai con sông (sông Lô, sông Phó Đáy) được xem là những dòng sông của lịch sử, của nghệ thuật. Bởi vậy, mỗi khi nhắc đến những dòng sông xứ Tuyên, người ta không chỉ gọi tên hay nghĩ đến những cây số của dòng chảy và các vùng đất mà nó đi qua. Đó chỉ là những tính toán, ghi nhận về khoa học địa lý còn trong cảm nhận của các nghệ sĩ nó được được soi chiếu bằng những chiều kích khác của nghệ thuật. Theo đó, trong con “mắt xanh” của những người nghệ sĩ, nếu sông Lô, nơi mồ chôn giặc Pháp, được xem là con sông của âm nhạc, từng khơi nguồn cảm hứng cho Văn Cao viết “Trường ca sông Lô”; Lưu Hữu Phước viết “Đoàn quân sông Lô”; Nguyễn Đình Phúc viết “Chiến sĩ sông Lô”; Lương Ngọc Trác viết “Lô Giang”; Minh Quang viết “Sông Lô chiều cuối năm” … thì sông Phó Đáy được xem là con sông đã mang đến những cảm hứng đặc biệt cho hồn thơ của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Chỉ tính riêng đoạn chảy trên phần đất chiến khu Việt Bắc ở Tân Trào trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp, bạn đọc yêu thơ hẳn đã từng nghe tên những địa danh Ngòi Thia, sông Đáy, suối Lê ngân vang với những nỗi niềm nhung nhớ trong bài thơ “Việt Bắc” của nhà thơ Tố Hữu: “Nhớ từng rừng nứa bờ tre/ Ngòi Thia, sông Đáy, suối Lê vơi đầy”. Nhưng đấy mới chỉ là tên sông khơi gợi về một thời “Thương nhau chia củ sắn lùi/ Bát cơm sẻ nửa chăn sui đắp cùng” thôi, còn với Chủ tịch Hồ Chí Minh dòng sông ấy lúc nào cũng hiện lên trong lòng người yêu thơ như một suối nguồn rất trong trẻo và vô cùng thi vị.

Khúc sông Phó Đáy ở Tân Trào, nơi Bác Hồ thường đi thuyền đến các cơ quan cách mạng để chỉ đạo kháng chiến

Khúc sông Phó Đáy ở Tân Trào, nơi Bác Hồ thường đi thuyền đến các cơ quan cách mạng để chỉ đạo kháng chiến

Bên dòng Phó Đáy, Khấu Lấu (nằm ở phía Nam thôn Bòng xã Tân Trào, ngay bên quốc lộ 2C) in dấu bóng hình Bác và lưu giữ nhiều sự kiện trọng đại của cách mạng dân tộc. Bia di tích lịch sử ở đây khắc ghi, kể từ khi rời khỏi Lũng Tẩu, Bác Hồ đã chuyển đến ở và làm việc tại Khấu Lấu ba lần, trong khoảng thời gian từ năm 1949 đến năm 1950. Lần thứ nhất từ 6/4/1949 - 16/5/1949; lần thứ hai từ 1/6/1949 - 2/1/1950; lần thứ ba từ 6/4/1950 - đầu tháng 9 năm 1950. Chính tại Khấu Lấu, Bác đã viết nhiều bài báo, tác phẩm nói về phê bình trong Đảng, nói về cần kiệm liêm chính; chủ trì nhiều hội nghị Trung ương để thảo luận về các vấn đề chính trị, kinh kế, chính quyền nhằm chuẩn bị cho Đại hội Đảng; chuẩn bị các nội dung cho hoạt động ngoại giao với Trung Quốc và Liên Xô; đặc biệt, đây cũng là nơi Bác Hồ và Trung ương Đảng đã quyết định mở chiến dịch Biên giới. Có lẽ, gần một thế kỷ đi qua, ngót tám mươi năm, chốn xưa của Người ở Khấu Lấu đã có nhiều đổi thay. Những lán xưa, nhà nọ, hầm trú ẩn và sân chơi bóng chuyền của những ngày kháng chiến giờ không còn nữa nhưng dòng sông êm đềm, nước biếc và bến Vực cùng phiến đá Người từng ngồi câu cá sau mỗi giờ làm việc thì dường như vẫn còn nguyên vẹn. Đất, trời, núi rừng, sông nước, sương khói Tân Trào vẫn “trông theo bóng Người”. Người dân thôn Bòng đã lấy tên Bác để đặt tên cho bến nước, nơi ngày xưa Bác từng ngồi câu: bến Vực được gọi là Vực Hồ. Chốn xưa Người ở cũng đã được công nhận là Khu di tích lịch sử Khấu Lâu - Vực Hồ, nằm trong quần thể di tích quốc gia đặc biệt Tân Trào.

Bên bia Di tích lịch sử Khấu Lấu - Vực Hồ

Bên bia Di tích lịch sử Khấu Lấu - Vực Hồ

Bên di tích lán II ở Khấu Lấu - Vực Hồ

Bên di tích lán II ở Khấu Lấu - Vực Hồ

Bên tấm bia lán II, nhìn xuống dòng sông trong xanh phản chiếu bầu trời trắng tựa như bông, bất chợt chúng tôi lại nhớ đến con thuyền “đàm quân sự” bồng bềnh trên mặt nước giữa dòng sông trong đêm xuân xanh biếc, mờ ảo sương khói tháng Giêng của rừng núi thăm thẳm ngày nào. Người ta kể rằng, vào dịp tết Nguyên Tiêu năm Mậu Tý (1948), Bác Hồ và nhà thơ Xuân Thủy cùng một số cán bộ Trung ương đi kiểm tra chiến dịch ở khu vực Tân Trào. Người và các đồng chí của mình đi thuyền trên sông Phó Đáy. Đoàn công tác kiểm tra xong và trở về vào lúc giữa đêm khuya. Khi ấy, nhìn lên bầu trời, trăng rằm tỏa sáng vằng vặc. Ngó xuống dòng sông, khung cảnh núi rừng cùng với trăng sao in hình trên mặt nước, lung linh như trong mộng. Trước vẻ đẹp của đêm trăng thơ mộng ấy mọi người đã đề nghị Bác làm thơ. Nghe theo mọi người, Bác ứng khẩu và đọc luôn một bài thơ tứ tuyệt bằng chữ Hán với tiêu đề là “Nguyên Tiêu”:

“Kim dạ nguyên tiêu nguyệt chính viên,
Xuân giang xuân thủy tiếp xuân thiên.
Yên ba thâm xứ đàm quân sự
Dạ bán quy lai nguyệt mãn thuyền.”

Đọc xong Bác liền bảo nhà thơ Xuân Thủy dịch sang tiếng Việt cho mọi người hiểu hết ý nghĩa của bài thơ. Vâng lời Bác, nhà thơ Xuân Thủy đã dịch rất nhanh và đọc luôn cho mọi người cùng nghe. Bản dịch hôm đó của Xuân Thủy là:

“Rằm xuân lồng lộng trăng soi,
Sông xuân nước lẫn màu trời thêm xuân.
Giữa dòng bàn bạc việc quân,
Khuya về bát ngát trăng ngân đầy thuyền.”
(Rằm tháng Giêng)

Nhà thơ Xuân Thủy đọc xong Bác rất khen là lưu loát nhưng vẫn băn khoăn vì thiếu một chữ xuân ở câu thứ hai. Nghe vậy, nhà thơ Xuân Thủy đã dịch lại cho đủ ý, đủ chữ. Bản dịch lần thứ hai của Xuân Thủy là:

“Rằm xuân vằng vặc trăng soi
Xuân sông, xuân nước, xuân trời đẹp thay
Việc quân bàn giữa sương dầy
Khuya về bát ngát thuyền đầy ánh trăng.”

Dường như dịch xong nhà thơ vẫn chưa ưng nên lại dịch tiếp lần thứ ba:
“Rằm tháng riêng trăng tròn vành vạnh
Liền sông xuân, nước xuân, trời xuân
Nơi khói sóng luận bàn quân sự
Khuya, thuyền về ăm ắp trăng ngân.”

Và, cũng trên khúc sông ấy, tối 18 tháng 9 năm 1949, Bác lại từ Khấu Lấu xuôi dòng đến huyện lỵ Sơn Dương để thăm và nói chuyện với một lớp tập huấn cán bộ kháng chiến. Lại một đêm trăng trữ tình giữa rừng khuya thanh vắng, với tình yêu tha thiết thiên nhiên, Người lại một lần nữa không thể hững hờ được. Cảm hứng về sông nước, về bầu trời đầy trăng sao giữa núi rừng xứ Tuyên mà Bác lại sinh tình để viết “Đi thuyền trên sông Đáy”:

“Dòng sông lặng ngắt như tờ
Sao đưa thuyền chạy, thuyền chờ trăng theo
Bốn bề phong cảnh vắng teo
Chỉ nghe cót két tiếng chèo thuyền nan
Lòng riêng, riêng những bàn hoàn
Lo sao khôi phục giang san Tiên Rồng
Thuyền về, trời đã rạng đông
Bao la nhuốm một màu hồng đẹp tươi.”

Vậy đấy, không chỉ có núi rừng Tân Trào lưu dấu chân Người mà khúc sông Phó Đáy uốn lượn quanh co bên đôi bờ đồi núi trập trùng với dòng nước trong xanh, êm đềm, phẳng lặng, ngập tràn trăng sao ở nơi đây cũng đã trở thành một tri âm đầy hứng khởi của Bác. Và không những thế, theo thời gian, nó còn là một chứng nhân lịch sử của những tháng năm kháng chiến gian khổ ở thủ đô gió ngàn mà dân tộc ta đã từng đi qua. Thăm lại khúc sông xưa, ngắm nhìn dòng nước xanh vời non nước nơi Bác ngồi buông câu, bất chợt chúng tôi lại ngộ ra một điều thú vị về dòng sông. Phó Đáy, không hùng vĩ như sông Hồng, sông Đà, sông Mã; không lừng lẫy chiến công như Bạch Đằng Giang, Hậu Giang, Lô Giang nhưng dòng sông ấy lại gắn bó sâu lặng với Bác - một nhà thơ, một nhà cách mạng lỗi lạc, một danh nhân văn hóa của nhân loại trong thế kỷ XX. Không biết từ khi nào, nó đã trở thành một phần quan trọng, không thể thiếu được trong cuộc đời cách mạng cũng như trong sự nghiệp thi ca của Bác. Thì kia, hai bài thơ từng được Người cảm hứng trên dòng sông Tân Trào này là một minh chứng. Nó không thể nào tách ra khỏi đời thơ của Bác. Chẳng thế mà nó đã đằm sâu vào trong ký ức và truyền cảm hứng sang tâm hồn biết bao thế hệ học trò từ trước đến nay. Hơn thế, nó không chỉ được đưa vào trong sách giáo khoa mà tên của một trong hai bài thơ ấy cũng đã được Hội Nhà Văn Việt Nam và nhiều tỉnh, thành lựa chọn làm tên gọi đêm thơ hàng năm: đêm thơ Nguyên Tiêu.

Bên di tích sân thể thao ở Khấu Lấu - Vực Hồ

Bên di tích sân thể thao ở Khấu Lấu - Vực Hồ

Thế đấy, thăm lại chiến khu xưa ở nơi thủ đô gió ngàn lần này ta như nghe thấy âm vang của lịch sử gọi về trong gió. Lặng nhìn những căn lán đơn sơ, mộc mạc ẩn mình dưới bóng tre xanh giữa núi rừng tĩnh lặng lòng bỗng dâng trào những nỗi niềm bâng khuâng khó tả. Đâu đó bên dòng sông ta như thấy Bác đang chơi chuyền bóng hay ngồi thả câu hay thong dong dạo thuyền giữa dòng sông bát ngát sao trời. Cứ như thế mà Người hiện lên giản dị mà vĩ đại vô vùng. Nghĩ thế, trong lòng lại thấy vọng về câu thơ của Tố Hữu: “Ta bên Người, Người tỏa sáng trong ta/ Ta bỗng lớn ở bên Người một chút”.

Thành Tuyên, 16 tháng 11 năm 2025

Đào Hiền

Nguồn VHPT: https://vanhoavaphattrien.vn/tan-man-ben-dong-song-pho-day-o-tan-trao-a30990.html