Tầm nhìn của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong quan hệ với Liên Hợp Quốc và Mỹ
Trong đánh giá của Archimedes Patti - nguyên Thiếu tá tình báo Cơ quan phục vụ chiến lược Mỹ OSS (tiền thân của CIA), Hồ Chí Minh là người ôn hòa, yêu hòa bình, hòa hợp, hòa giải và là một trong nhà cách mạng thực tế...
Nhân kỷ niệm 80 năm thành lập Liên Hợp Quốc (24/10/1945), 30 năm quan hệ ngoại giao Việt – Mỹ, Đại sứ Hà Huy Thông, nguyên Phó Chủ nhiệm Ủy ban Đối ngoại Quốc hội Khóa XIII (2011-2016) chia sẻ những câu chuyện nói lên tầm nhìn của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong quan hệ với Liên Hợp Quốc và Mỹ.
Đại sứ Hà Huy Thông là người được giao nhiệm vụ tháp tùng ông Archimedes Patti - nguyên Thiếu tá tình báo Cơ quan phục vụ chiến lược Mỹ OSS (tiền thân của CIA) khi ông Patti trở lại thăm Việt Nam năm 1982. Ông Patti là nhân chứng lịch sử tham dự Ngày Độc lập 2/9/1945 tại Quảng trường Ba Đình theo đề nghị của Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Ông Patti được cử theo dõi tình hình Nhật ở Đông Dương từ 1943 - 1944, và bắt đầu tiếp xúc với Chủ tịch Hồ Chí Minh từ những ngày tháng 8/1945.

Ông Patti vào Lăng viếng Bác. Ảnh do Đại sứ Hà Huy Thông cung cấp
Câu chuyện thứ nhất: Tranh thủ phe Đồng minh chống phát xít
Ông Patti cho rằng sau vụ Trân Châu Cảng (7/12/1941), Đông Dương trở thành một cơ sở cho phe phát xít tấn công phe Đồng Minh.
Từ năm 1942 - 1944, độc lập và tự do của các dân tộc bị áp bức trở thành tâm điểm khi Mỹ thúc đẩy vấn đề này. Nhưng năm 1942 và 1943, hoạt động tình báo của Mỹ ở Đông Nam Á rất khó khăn, nên Mỹ cố gắng thiết lập hệ thống tình báo ngầm hiệu quả.
Ông Patti kể ngày 28/8/1942, người Mỹ ở Trung Quốc lần đầu tiên nghe đến việc Hồ Chí Minh bị chính quyền Tưởng bắt. Ngày 18/12/1942, tin này xuất hiện trên báo ở Trùng Khánh, rồi được hãng thông tấn Mỹ United Press chuyển về New York và Washington. Tin này gây bất ngờ cho các nhà ngoại giao Trung Quốc, Pháp và Mỹ ở Trùng Khánh. Ngày 2/9/1942, một phóng viên của hãng Reuters đã phản đối việc chính quyền Tưởng bắt giữ Hồ Chí Minh.
Ông Patti kể đã được đọc bức điện của Đại sứ Mỹ Gauss ngày 31/12/1942 ở Trùng Khánh gửi về nước báo cáo phía Tưởng đã bắt được một người An Nam tên Hồ Chí Minh. Theo ông Patti, đây là lần đầu tiên ông đọc thấy tài liệu mật Đại sứ Mỹ Gauss điện về nêu tên ông Hồ Chí Minh.
Mùa hè năm 1943, thông qua kênh ngoại giao và quân sự, OSS đàm phán với chính quyền Tưởng để thả Hồ Chí Minh trong khi tướng của Tưởng là Trương Phát Khuê tìm cách tranh thủ thúc ép ông phục vụ cho Tưởng. Theo Patti, cả Mỹ và Tưởng đều tìm kiếm tranh thủ ông Hồ trong khi những người bạn cộng sản cơ bản không biết số phận của ông. Trong khi đó Hiệp hội quốc tế chống xâm lược đã nhận được hai đơn đề nghị thả ông Hồ.
Tháng 9/1943, sau 1 năm 14 ngày bị giam giữ, “tự do trở lại” với Hồ Chí Minh. Năm 1944, Tổng Lãnh sự Mỹ ở Côn Minh là Langdon còn điện về Mỹ đề nghị Bộ Ngoại giao nước này cấp thị thực cho ông Hồ sang Mỹ…

Sĩ quan tình báo Mỹ Patti thăm di tích nhà sàn Bác Hồ. Ảnh do Đại sứ Hà Huy Thông cung cấp
Câu chuyện thứ hai: Kỷ nguyên hậu Thế chiến
Sau khi Bộ Ngoại giao Mỹ xác nhận Nhật ngày 10/8/1945 tuyên bố đầu hàng theo điều kiện nêu tại Hội nghị Potsdam (Đức), thì Thế chiến 2 đi vào kết thúc. Theo Patti, một kỷ nguyên mới bắt đầu tại ngôi làng nhỏ bé ít người biết ở Tân Trào.
Sau Đại hội quốc dân ở Tân Trào (từ ngày 13 - 16/8/1945) vài tuần, ông Patti kể đã được nghe Hồ Chí Minh nói: Nếu thực dân Pháp định trở lại để bóc lột và hại nhân dân tôi, thì tôi có thể đảm bảo với họ và thế giới rằng, Việt Nam từ miền Bắc đến miền Nam chính sách của chính phủ sẽ là “Tiêu thổ kháng chiến” đến cùng để giành được độc lập.
Patti kể, ông nhớ như in đây không phải là lời cảnh báo suông, mà là từ một người là “Bậc thầy của nền ngoại giao đang trong thời hoạt động bí mật”. Đồng thời, ông Hồ còn gặp trao đổi về sự an toàn cho cộng đồng người Pháp ở Hà Nội, Hải Phòng và các thành phố khác ở phía Bắc.
Ông Patti còn kể trong các cuộc trao đổi, Hồ Chí Minh còn đề cập tới nhu cầu cấp thiết là tranh thủ sự ủng hộ của Mỹ đối với nền độc lập của Việt Nam. Patti cho biết việc này không thể giải quyết ngay và đây là vấn đề cần trao đổi giữa Hà Nội và Paris, có lẽ tại LHQ sau Thế chiến.

Ông Hà Huy Thông (giữa) ghi chép buổi trò chuyện giữa ông Archimedes L.A. Patti và Phó chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng kiêm Bộ trưởng Ngoại giao Nguyễn Cơ Thạch, ngày 9/9/1982. Ảnh do Đại sứ Hà Huy Thông cung cấp
Câu chuyện thứ ba: Người yêu hòa bình, thích “đàm” và chỉ “đánh” khi hết cách
Sau khi trả lời kế hoạch đến dự Ngày Độc lập 2/9/1945 mà Hồ Chí Minh mời, ông Patti kể đã đến gặp Cao ủy Pháp tại Việt Nam Sainteny. Khi đó, Sainteny đã hỏi Patti rằng ông Hồ có sẵn sàng đối thoại với Pháp không?.
Patti nghĩ một lúc rồi trả lời rằng, Hồ Chí Minh là người ôn hòa, yêu hòa bình, hòa hợp, hòa giải và là một trong nhà cách mạng thực tế trong những nhà lãnh đạo theo chủ nghĩa dân tộc.
Từ các lần trao đổi với Hồ Chí Minh, Patti kể ông suy luận rằng Hồ Chí Minh biết những giới hạn của mình. Ví dụ, ông Hồ biết đang phải đưa đất nước vượt qua tình trạng khó khăn, giữa lúc không đảm bảo được quốc tế ủng hộ, cán bộ thiếu kỹ năng chuyên môn kỹ thuật… Đồng thời, Hồ Chí Minh biết mình được thừa hưởng “tài sản lớn” như những người theo mình rất có kỷ cương, tổ chức chính trị hiệu quả chọn lọc từ các giai cấp công nhân - nông dân - trí thức, đều có chung mục tiêu là độc lập. Ông Hồ chắc chắn sẽ tiếp tục đà cách mạng này.
Vẫn theo lời Patti, ông thấy ở Hồ Chí Minh một con người yêu hòa bình, hòa hợp và hòa giải. Khi phải lựa chọn giữa “đánh” và “đàm”, Hồ Chí Minh thà “đàm” (ít phải hy sinh của nhân dân và đất nước) hơn “đánh”. Patti kể, Sainteny nghe rất chăm chú nhận xét của ông rồi cho biết sẽ nói chuyện trực tiếp với Hồ Chí Minh và tin có thể có phương án có lợi cho Việt Nam.
Patti cho rằng có lẽ nhờ tiếp xúc cá nhân trực tiếp giữa Sainteny với Hồ Chí Minh đã dẫn đến thỏa hiệp sơ bộ sau này.
Ngày 22/8/1945, ông Patti lần đầu tiên đến Hà nội và hỏi ông Khuất Duy Tiến và Vũ Văn Minh đại diện cho Ủy ban thành phố Hà Nội xem Việt Minh đã giành chính quyền thế nào, thì được nghe kể lại một cách rất tự hào rằng, điều quan trọng trước hết là giành được chính quyền mà không phải nổ súng và đổ máu. Tiếp nữa là tất cả các dịch vụ công cộng của Hà Nội không bị gián đoạn.
Ngày 26/8/1945, lần đầu tiên Patti gặp lại Hồ Chí Minh ở Hà Nội.
Câu chuyện thứ tư: Thông điệp tới Tổng thống Truman
Ngày 16/8/1945, Đại hội Tân Trào thông qua Nghị quyết về Tổng khởi nghĩa, Quân lệnh số 1, Chương trình 10 điểm, Quốc kỳ và quốc ca. Theo Patti, Hồ Chí Minh ký lời hiệu triệu kêu gọi toàn dân: “Giờ định mệnh của đất nước chúng ta đã điểm. Nhiều dân tộc bị áp bức trên thế giới đã đứng lên giành độc lập. Chúng ta không thể tụt lại phía sau. Dưới ngọn cờ của Việt Minh, toàn dân ta hãy dũng cảm tiến lên!”.
Hồ Chí Minh đã ký lời Hiệu triệu này với tên: “Nguyễn Ái Quốc” đã dùng từ khi đi bôn ba ở nước ngoài nhằm kêu gọi chủ nghĩa yêu nước trong lòng mỗi người dân mà ông coi là phẩm chất đạo đức tối thượng của mỗi người dân.
Sau khi đến Hà Nội ngày 22/8/1945, ông Patti kể đã nghe mọi người quan tâm chính phủ mới được thành lập thế nào. Rồi, tin tức cho biết Hồ Chí Minh làm Chủ tịch Chính phủ lâm thời kiêm Bộ trưởng Ngoại giao đầu tiên.
Ngày 30/8/1945, vua Bảo Đại thoái vị. Cùng ngày, Patti cho biết ông Võ Nguyên Giáp đã đề nghị ông Patti chuyển tới Tổng thống Mỹ Truman bức thư mà Hồ Chí Minh gửi với tư cách Chủ tịch Chính phủ lâm thời, rằng “để tìm kiếm giải pháp cho vấn đề mà Ủy ban liên đồng minh được kêu gọi giải quyết ở Việt Nam, đề nghị các đại biểu Mỹ tham gia Ủy ban và thiết lập quan hệ với Chính phủ chúng tôi”.
Patti kể, ông biết Chủ tịch Hồ Chí Minh muốn Việt Nam có ghế trong số các nước quyết định tương lai của Đông Dương, nhưng ông không sẵn sàng chuyển bức thư này về nước nếu không trao đổi với ông Hồ và rằng nó thuộc lĩnh vực ngoại giao nằm ngoài thẩm quyền của Patti.
Sau đó khi Patti đến gặp, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã cười nhẹ nhàng giải tỏa thoải mái trăn trở của Patti và quay sang hỏi ông Hoàng Minh Giám giải thích bằng tiếng Pháp thành thạo rằng, bức thư có mục đích là: Khuyến khích các nước lớn trong phe Đồng Minh công nhận chính phủ lâm thời là đại diện hợp pháp duy nhất cho những lợi ích của nhân dân Việt Nam trong những vấn đề ảnh hưởng đến chủ quyền của mình.
32 năm sau, ngày 20/9/1977, Việt Nam chính thức gia nhập Liên Hợp Quốc…
Nhân dịp Chủ tịch nước Lương Cường và Phu nhân cùng Đoàn đại biểu cấp cao Việt Nam tham dự Phiên thảo luận chung cấp cao Đại hội đồng Liên Hợp Quốc (ĐHĐ LHQ) Khóa 80, kết hợp hoạt động song phương tại Hoa Kỳ từ ngày 21-24/9/2025, Đại sứ Đỗ Hùng Việt, Trưởng Phái đoàn thường trực Việt Nam tại LHQ, đã trả lời phỏng vấn báo chí.
Đại sứ Đỗ Hùng Việt cho biết: Đại hội đồng LHQ Khóa 80 diễn ra trong bối cảnh kỷ niệm 80 năm thành lập LHQ. Trong suốt 8 thập kỷ qua, LHQ luôn là đầu tàu thúc đẩy hợp tác đa phương và có những đóng góp quan trọng cho hòa bình, an ninh, phát triển bền vững và bảo đảm quyền con người trên toàn cầu.
Tuần lễ Cấp cao Đại hội đồng LHQ Khóa 80 diễn ra vào thời điểm có ý nghĩa rất đặc biệt. Năm 2025 đánh dấu 80 năm thành lập LHQ và cũng là kỷ niệm 80 năm ngày ra đời nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, nay là nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam – hai chủ thể cùng sinh ra từ khát vọng hòa bình, độc lập dân tộc và tiến bộ của nhân loại.
Ngay từ những ngày đầu lập quốc, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã bày tỏ ý nguyện của Việt Nam tham gia LHQ. Nhưng dân tộc ta đã phải trải qua hai cuộc kháng chiến kéo dài ba thập kỷ để bảo vệ nền độc lập và thống nhất đất nước, trước khi nguyện vọng này trở thành hiện thực vào năm 1977. Từ đó đến nay, Việt Nam và LHQ là hai đối tác gần gũi, tương đồng về khát vọng, đồng hành trong hành động trên hành trình phát triển...