Tấm lòng vàng của những nhà tư sản yêu nước đầu thế kỷ 20

Chính sách 'trọng nông ức thương' của các triều đại phong kiến đã kìm hãm sự phát triển của kinh tế Việt Namtrong nhiều thế kỷ. Do đó, phải đến đầu thế kỷ 20 tầng lớp tư sản dân tộc Việt Nam mới hình thành, nhưng vẫn trong điều kiện bất lợi.

Chủ tịch Hồ Chí Minh với các nhà tư sản Hà Nội trước Bắc Bộ Phủ ngày 18/9/1945. Ảnh: TL

Chủ tịch Hồ Chí Minh với các nhà tư sản Hà Nội trước Bắc Bộ Phủ ngày 18/9/1945. Ảnh: TL

Tuy nhiên, đến năm 1945, tầng lớp tư sản Việt Nam đã lớn mạnh và nhiều nhà tư sản dân tộc yêu nước đã ủng hộ cách mạng, không tiếc tiền của đóng góp cho Nhà nước Việt Nam non trẻ.

KHỞI NGHIP VỚI TINH THẦN TỰ TÔN DÂN TC

Ra đời trong hoàn cảnh nước nhà bị đô hộ, điều kiện không thuận lợi, vốn ít, kinh nghiệm thương trường hạn chế, các tiểu chủ ở Hà Nội và Bắc Kỳ lại phải cạnh tranh với tư bản Pháp đang kinh doanh tại Việt Nam, các thương nhân Hoa kiều có tiềm lực mạnh từ cuối thế kỷ 19. Để tồn tại và phát triển, họ cần phải nhạy bén, khôn khéo, song, như vậy là chưa đủ. Thực tế chứng minh các doanh nhân lớn mạnh đều lấy tinh thần tự tôn dân tộc làm điểm tựa nên trong thập niên đầu thế kỷ 20, một số doanh nhân đã gặt hái thành công.

Từ một công ty nhỏ thành lập vào năm cuối thế kỷ 19 chuyên xuất khẩu nông sản, ông Bạch Thái Bưởi đã chèo lái công ty cạnh tranh và thắng thế trước các công ty vận tải lớn của chủ Pháp và Hoa kiều, được báo chí đương thời gọi là “vua vận tải đường sông Bắc Kỳ”.

Từ lòng tự tôn dân tộc, ông Bạch Thái Bưởi suy nghĩ, muốn nước nhà độc lập thì trách nhiệm của doanh nhân phải tự lực, tự cường. Suy nghĩ đó thôi thúc ông chuyển sang lĩnh vực đóng tàu biển và con tàu Bình Chuẩn ra đời khiến các nhà tư bản Pháp phải nể phục.

Không dừng lại ở đóng tàu, ông lấn sang cả lĩnh vực khai mỏ. Hiểu rằng, chỉ một mình thành công nghĩa là tự cường chưa thành nên ông ra sức bảo vệ các công ty trong nước. Tại Hội nghị kinh tế Đông Dương họp vào tháng 9/1928, ông đã phê phán gay gắt chính sách thuế gây bất lợi cho các doanh nghiệp của người Việt khiến Toàn quyền René Robin rất tức giận, nhưng ông ta phải ngầm thừa nhận chính sách thuế có sự ưu ái cho các nhà tư bản Pháp.

Cũng nhờ cái gốc tự tôn dân tộc, các sản phẩm thủy tinh của Công ty Thanh Đức do ông Trịnh Đình Kính làm chủ không chỉ được tiêu thụ khắp Đông Dương mà còn xuất khẩu sang Algérie, Tuynidi và Maroc. Gạch ngói hiệu Hưng Ký của ông Trần Văn Thành nổi tiếng đủ sức cạnh tranh với gạch Satic của Pháp đã có mặt trong một số công trình lớn ở Malaysia. Và tiếng tăm của Công ty Cự Doanh còn vang tới tận Madagascar (châu Phi) khi Công ty xuất khẩu sản phẩm dệt kim sang xứ sở này.

TẬN TÂM GIÚP ĐỠ CÁCH MẠNG

Các nhà tư sản người Việt không chỉ góp phần làm rạng rỡ nền kinh tế thuộc địa mà nhiều nhà tư sản dân tộc còn là những người yêu nước, khát khao nước nhà độc lập, thoát khỏi sự đô hộ của thực dân Pháp. Nhà máy gạch của doanh nhân Trần Văn Thành ở Phúc Yên (nay thuộc xã Sóc Sơn, Hà Nội) là nơi thành lập chi bộ Đông Dương Cộng sản Đảng tháng 8/1929. Cũng chính nơi đây, đầu năm 1947, các chiến sĩ quân báo và du kích đã hai lần treo cờ đỏ sao vàng trên đỉnh ống khói nhà máy để khích lệ, động viên tinh thần đấu tranh cách mạng của quân và dân địa phương.

Nhà tư sản Đỗ Đình Thiện, người chuyên xuất khẩu tơ lụa sang Pháp, đã tham gia các hoạt động ủng hộ Đảng Cộng sản Đông Dương từ những năm 1932-1945 như hỗ trợ tiền cho báo Le Travail (Lao động), tuyên truyền vận động đưa người của Đảng Cộng sản Đông Dương vào Viện Dân biểu Bắc Kỳ.

Đầu những năm 1940, ngôi nhà ở 54 Hàng Gai (Hà Nội) của gia đình ông trở thành “nhà khách” của các nhà cách mạng. Ngày 1/9/1945, ông bà đã giúp 10 vạn đồng để Chính phủ sắp ra đời có tiền chi dùng.

 Ông Trịnh Văn Bô và bà Hoàng Thị Minh Hồ.

Ông Trịnh Văn Bô và bà Hoàng Thị Minh Hồ.

Ông bà Đỗ Đình Thiện còn bỏ tiền mua nhà in Taupin (số 5 đường Lê Duẩn, Hà Nội) in tiền cho Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Ngày 19/12/1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh ra Lời kêu gọi Toàn quốc kháng chiến, ông bà đã mua đồn điền Chi Nê (sau này là xã Cổ Nghĩa, tỉnh Hòa Bình cũ) làm nơi dừng chân cho một số đơn vị bộ đội trên đường vào nam chiến đấu và di chuyển máy in từ Hà Nội lên tiếp tục in tiền. Tờ giấy bạc 100 đồng Việt Nam (còn gọi là tờ bạc “con trâu xanh”) được in tại nhà máy này.

Ngày 19/8/1945, Tổng khởi nghĩa giành chính quyền ở Hà Nội thành công, Trung ương cho người đón Bác Hồ từ Tuyên Quang về Hà Nội. Cán bộ Thành ủy Hà Nội bố trí Bác ở gác hai ngôi nhà 48 Hàng Ngang của gia đình nhà tư sản Trịnh Văn Bô, người có hiệu tơ lụa Phúc Lợi nổi tiếng. Chính tại ngôi nhà sang trọng này, Bác viết bản Tuyên ngôn độc lập. Ngày 2/9/1945, Bác đã đọc trước hàng vạn người ở quảng trường Ba Đình, tuyên bố thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.

Sau này, ông bà Trịnh Văn Bô-Hoàng Thị Minh Hồ đã hiến tặng ngôi nhà cho Nhà nước và Nhà 48 phố Hàng Ngang đã được Bộ Văn hóa và Thông tin (nay là Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch) xếp hạng Di tích lịch sử văn hóa cấp quốc gia năm 1979.

Với doanh nhân công giáo Ngô Tử Hạ, ông không chỉ làm ăn giỏi, mà còn là người sớm giác ngộ cách mạng. Ông được xem là mạnh thường quân của các trí thức yêu nước muốn in ấn sách báo có tư tưởng tiến bộ. Nhà in của ông ủng hộ Việt Minh hàng tạ chữ chì để in truyền đơn cho cách mạng. Những giọt mực cuối cùng ở nhà in Ngô Tử Hạ trên phố Lý Quốc Sư đã được dùng để in những đồng bạc đầu tiên của Chính phủ Cụ Hồ, trước khi bị quân Pháp đốt cháy ngay trong đêm Toàn quốc kháng chiến 19/12/1946.

Và còn rất nhiều tấm lòng với cách mạng của các doanh nhân - tư sản Hà Nội khác.

Không chỉ tận tâm giúp đỡ cách mạng, các nhà tư sản dân tộc yêu nước còn “thương người như thể thương thân”. Ông Bạch Thái Bưởi cùng bốn nhà tư sản đã lập hội thiện, mua 300 mẫu đất làm nghĩa trang Hợp Thiện để chôn cất những người chết vô thừa nhận. Các ông bà Trịnh Văn Bô, Nguyễn Sơn Hà, Ngô Tử Hạ, Vương Thị Lai, Đỗ Đình Thiện, Hoàng Thị Uyển… cứ nghe tin ở tỉnh, thành nào mất mùa, lũ lụt, vỡ đê là họ ra tay cứu giúp.

ỦNG HTIỀN, VÀNG CHO NHÀ NƯC VIT NAM NON TRẺ

Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa non trẻ thành lập trong tình trạng kho bạc trống rỗng, chỉ còn lại những tờ bạc rách. Để Chính phủ có kinh phí hoạt động, ngày 4/9/1945, Bộ trưởng Bộ Nội vụ Võ Nguyên Giáp thay mặt Chính phủ lâm thời ký sắc lệnh số 04 thành lập “Quỹ Độc lập”. Trong khuôn khổ quỹ, Chính phủ đã đề ra chương trình tổ chức “Tuần lễ vàng” từ ngày 17 đến ngày 24/9/1945, kêu gọi sự ủng hộ của nhân dân, nhất là tầng lớp thương nhân trên cả nước.

Ở Hà Nội, “Tuần lễ vàng” khai mạc vào sáng 17/9 tại thềm Nhà hát Lớn. Sau lời khai mạc của cố vấn Vĩnh Thụy, ông bà Trịnh Văn Bô đã ủng hộ 117 lạng vàng. Chủ hãng sơn, nhà tư sản Nguyễn Sơn Hà sau khi đã góp vàng thấy dường như còn ít, không do dự ông tháo ngay chiếc nhẫn quý bằng platin cẩn kim cương bỏ vào thùng hiến tặng thêm. Vợ ông là bà Nguyễn Thị Ngọc Mùi và con gái đã hiến tặng toàn bộ số nữ trang của hai mẹ con gồm vàng bạc, đá quý.

Một nhà tư sản khác là bà Vương Thị Lai, chủ hiệu buôn Lợi Quyền ở phố Hàng Ngang đã đóng góp 109 lạng vàng.

Trân trọng tình cảm của bà Lai dành cho dân tộc, ngày 10/11/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh mời bà lên Bắc Bộ Phủ uống trà và tặng bà tấm huy chương hình ngôi sao bằng vàng, tấm huy chương này là quà tặng của Việt kiều yêu nước ở Trung Quốc gửi biếu Bác.

Trong sắc lệnh số 04, ông Võ Nguyên Giáp đã giao ông bà Đỗ Đình Thiện “Phụ trách Quỹ Trung ương ở Hà Nội” trong “Tuần lễ vàng”. Để vận động mọi người ủng hộ Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, ông bà đã làm gương ủng hộ 10 vạn đồng vào “Quỹ Độc lập” và 100 lạng vàng trong “Tuần lễ vàng”. Đặc biệt, ông bà Đỗ Đình Thiện còn bỏ ra một triệu đồng mua bức tranh của họa sĩ Nguyễn Sáng vẽ chân dung Chủ tịch Hồ Chí Minh sau đó tặng lại thành phố Hà Nội.

Trong số các nhà tư sản Hà Nội nhiệt tình hiến tặng còn có ông Nguyễn Hữu Nhâm, chủ hiệu vải Tam Kỳ nổi tiếng Hà thành có hiệu vải ở 48 Hàng Đào, ông Ngô Tử Hạ, ông Tống Minh Phương… Thật khó mà kể hết tấm lòng của doanh nhân Hà Nội và Bắc Kỳ đã đóng góp tiền, vàng của cho Chính phủ non trẻ.

Sau khi nghe báo cáo tấm lòng vì nước của các nhà tư sản Hà Nội trong ngày đầu tiên của “Tuần lễ vàng”, Bác Hồ vô cùng cảm động, Người đã trân trọng cho mời các vị có đóng góp đến Bắc Bộ Phủ. Và chiều ngày 18/9/1945, Bác đã gặp gỡ và tiếp đại diện giới công thương Hà Nội. Bác cảm ơn và động viên mọi người tiếp tục ủng hộ.

Tiếp theo đó ngày 13/10/1945, Bác đã gửi thư cho giới công thương, bức thư đăng trên báo Cứu Quốc. Trong nội dung bức thư, Bác động viên, khích lệ giới công thương, mong muốn họ tiếp tục ủng hộ Chính phủ để kiến quốc.

Khi thực dân Pháp tái chiếm Việt Nam, đáp Lời kêu gọi Toàn quốc kháng chiến, rất nhiều nhà tư sản dân tộc đã tham gia kháng chiến như các ông Trịnh Văn Bô, Nguyễn Sơn Hà; ông bà Đỗ Đình Thiện… Đặc biệt, ông Đỗ Đình Thiện còn là thư ký riêng tháp tùng Bác Hồ trong chuyến ngoại giao đầu tiên trên cương vị Chủ tịch nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tại Pháp, tham dự Hội nghị Fontainebleau và ký tạm ước ngày 14/9/1946.

Năm 2004, Chính phủ đã ra quyết định lấy ngày 13/10 hằng năm là Ngày Doanh nhân Việt Nam. Mới đây ngày 4/5/2025, thay mặt Bộ Chính trị, Tổng Bí thư Tô Lâm đã ký Nghị quyết số 68-NQ/TW về phát triển kinh tế tư nhân. Nghị quyết là sự tiếp nối của lịch sử, tiếp tục khẳng định vai trò của kinh tế tư nhân trong kỷ nguyên vươn mình của dân tộc.

NGUYỄN NGỌC TIẾN

Nguồn Nhân Dân: https://nhandan.vn/tam-long-vang-cua-nhung-nha-tu-san-yeu-nuoc-dau-the-ky-20-post914936.html