Tài chính xanh cho mục tiêu Net Zero - Bài 1: Đón đầu các nguồn tài chính
Tài chính xanh là khái niệm phản ánh sự kết hợp giữa hoạt động tài chính và mục tiêu bảo vệ môi trường, phát triển bền vững. Trong bối cảnh các nền kinh tế toàn cầu đang đối mặt với thách thức nghiêm trọng từ biến đổi khí hậu, mục tiêu phát thải ròng bằng 0 (Net Zero) đã trở thành cam kết quan trọng của nhiều quốc gia, trong đó có Việt Nam.
Để thực hiện mục tiêu này, tài chính xanh đóng vai trò then chốt trong việc tập trung nguồn lực và định hướng dòng vốn vào các hoạt động giảm phát thải, bảo vệ tài nguyên thiên nhiên, tăng cường khả năng thích ứng với biến đổi khí hậu, hướng đến phát triển bền vững.

Mô hình thí điểm chuyên canh lúa chất lượng cao, phát thải thấp tại Hợp tác xã nông nghiệp Phát Tài (xã Thanh Mỹ, huyện Châu Thành, tỉnh Trà Vinh). Ảnh: Thanh Hòa/TTXVN
Bài 1: Đón đầu các nguồn tài chính
Thời gian qua, để thực hiện mục tiêu phát thải ròng bằng 0 (Net Zero) vào năm 2050, tại Việt Nam đã có nhiều tổ chức cung cấp tài chính xanh cho các doanh nghiệp thực hiện các dự án xanh, dự án phát triển bền vững. Tuy nhiên, cho đến nay, lượng tài chính xanh được huy động và giải ngân vẫn chưa đáp ứng được nhu cầu của nền kinh tế, đặt ra nhiều thách thức cho cả cơ quan quản lý Nhà nước và doanh nghiệp.
Tiến sĩ Trần Minh Hải, Phó Hiệu trưởng Trường Chính sách công và Phát triển nông thôn, một trong 7 chuyên gia biên soạn Đề án phát triển bền vững 1 triệu ha lúa chất lượng cao phát thải thấp và tăng trưởng xanh vùng Đồng bằng sông Cửu Long cho biết, hiện có nhiều nguồn cung cấp tài chính xanh tại Việt Nam.
Cụ thể, về phía nước ngoài có Ngân hàng Thế giới (WB) đang cung cấp các khoản vay ưu đãi cho Việt Nam thực hiện các dự án xanh, dự án phát triển bền vững. Trong đó, hỗ trợ Việt Nam 263,9 triệu USD để thực hiện dự án phục hồi xanh và đang hoàn tất thủ tục cho Việt Nam vay 360 triệu USD thực hiện Đề án phát triển 1 triệu ha lúa nói trên. Tổ chức Tài chính quốc tế (IFC) đã hỗ trợ Ngân hàng SeABank phát hành 150 triệu USD trái phiếu xanh và hỗ trợ tài chính cho khu vực tư nhân thực hiện các dự án xanh.
Một số ngân hàng nước ngoài như Standard Chartered cũng đã có kế hoạch triển khai và ký kết các gói tài chính với các đối tác trị giá 1,5 tỷ USD. Ngân hàng HSBC cam kết đến năm 2030 tài trợ 12 tỷ USD trợ giúp các doanh nghiệp Việt Nam chuyển dịch năng lượng. Ngân hàng BNP cho vay tài chính xanh tập trung vào lĩnh vực lâm nghiệp, chế biến gỗ. Ngân hàng UOB cho vay tài chính xanh sản xuất nông nghiệp hữu cơ.
Một số cơ quan đại diện ngoại giao như Đại sứ quán Canada, Nhật Bản, Đức,… các tổ chức nước ngoài như GIZ, JICA, KOICA, Oxfam, ADB, GCF,... cũng có các chương trình cung cấp tài chính xanh tại Việt Nam.
Đối với trong nước, Quỹ Môi trường và các ngân hàng như Vietinbank, BIDV, Vietcombank, SeABank, MBBank, Nam Á Bank cũng đang cung cấp các khoản tài chính xanh. Cụ thể, Vietinbank đã triển khai cho vay các dự án xanh gần 27.000 tỷ đồng. BIDV đã phát hành 104 triệu USD trái phiếu xanh và đã đầu tư, cho vay gần 2 tỷ USD để phát triển các dự án xanh,…
Tuy nhiên, lượng tài chính xanh trên còn rất khiêm tốn so với nhu cầu thực. Ông Nguyễn Tuấn Quang, Phó Cục trưởng Cục Biến đổi khí hậu, Bộ Nông nghiệp và Môi trường cho biết, theo tính toán của WB, để đạt phát thải ròng bằng 0, từ nay đến 2040, Việt Nam cần số tiền khoảng 360 tỷ USD, trong khi GDP của Việt Nam năm ngoái chỉ đạt khoảng 475 tỷ USD. Nghĩa là, lượng tiền Việt Nam cần để đạt Net Zero là một con số rất lớn, cần có sự hỗ trợ từ nguồn tài chính xanh của các định chế tài chính quốc tế.
Theo ông Quang, sau hội nghị Hội nghị lần thứ 26 Các bên tham gia Công ước khung của Liên hợp quốc về biến đổi khí hậu (COP26), đã có khoảng 450 tổ chức tài chính từ 45 quốc gia đã cam kết chuyển dịch các dòng đầu tư sang hướng tài chính xanh với tổng giá trị lên đến 130.000 tỷ USD. Nếu tiếp cận được các nguồn tài chính xanh này, Việt Nam có thể đạt được cam kết Net Zero vào 2050.
Ông Quang cho biết: Luật Bảo vệ môi trường và các văn bản hướng dẫn đã đề cập đến tài chính xanh, nhưng các khái niệm khác cấu thành nên tài chính xanh như quỹ đầu tư xanh, thế chấp xanh, chứng chỉ xanh, đảm bảo xanh, bảo hiểm xanh,... vẫn chưa được đề cập, nên hành lang pháp lý cần được hoàn thiện để doanh nghiệp có thể tiếp cận với nguồn tài chính xanh.
Ông Tô Trần Hòa, Phó Vụ trưởng Vụ Phát triển thị trường, Ủy ban Chứng khoán Nhà nước, Bộ Tài chính cho biết: Hệ thống ngân hàng không thể gánh được toàn bộ việc huy động 360 tỷ USD nói trên. Vì đây là một nhiệm vụ bất khả thi. Do vậy, để giải bài toán này, trái phiếu xanh được xem là một kênh huy động đồng hành với thị trường tín dụng của ngân hàng. Tuy nhiên, thị trường này hiện còn nhiều hạn chế. Trong năm 2024, các tổ chức chỉ mới huy động được khoảng 8.000 tỷ đồng trái phiếu xanh, chiếm chỉ 1% tổng số lượng trái phiếu huy động được.
Lý giải nguyên nhân, ông Hòa cho rằng, mặc dù Việt Nam đã có khung pháp lý về tài chính xanh từ năm 2017, nhưng chỉ mang tính định hướng. Thị trường vốn xanh của Việt Nam chưa có bộ tiêu chuẩn về phân loại xanh cho tín dụng và trái phiếu doanh nghiệp. Các doanh nghiệp vẫn chưa nhìn thấy được lợi ích của việc phát hành sản phẩm tài chính xanh.
Ông Hòa dẫn chứng, Ngân hàng BIDV đã bố trí một nguồn vốn tương đối lớn cho vay tín dụng xanh nhưng tiêu chí là gì thì đến giờ cũng chưa có. Các doanh nghiệp đang rất cần bộ tiêu chí về phân loại xanh, vừa để doanh nghiệp có định hướng phát triển các dự án xanh, vừa giảm rủi ro cho hệ thống ngân hàng và các nhà đầu tư.

Nhiều doanh nghiệp tại tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu tích cực chuyển đổi theo hướng giảm phát thải, sử dụng năng lượng sạch, tối ưu quy trình sản xuất và thúc đẩy nền kinh tế tuần hoàn. Ảnh: Hoàng Nhị/TTXVN
Cùng với các công cụ tài chính xanh nói trên, Việt Nam cũng đang đẩy nhanh phát triển thị trường carbon (thị trường trao đổi phát thải khí nhà kính) để có thêm nguồn tài chính xanh thực hiện mục tiêu Net Zero.
Ông Phạm Nam Hưng, đại diện Phòng Thị trường carbon, Cục Biến đổi khí hậu, Bộ Nông nghiệp và Môi trường cho biết, thị trường carbon được chia thành hai nhóm, gồm thị trường bắt buộc (như hệ thống trao đổi hạn ngạch phát thải khí nhà kính) và thị trường tự nguyện (bao gồm các cơ chế trao đổi, bù trừ tín chỉ trong nước và quốc tế).
Theo báo cáo năm 2024 của Ngân hàng Thế giới, xu hướng áp dụng các công cụ định giá carbon, trong đó thị trường hạn ngạch phát thải khí nhà kính và các cơ chế trao đổi tín chỉ carbon là kênh huy động tài chính và công cụ làm giảm phát thải khí nhà kính hữu hiệu nhất cho đến nay.
Việt Nam đang theo đuổi mục tiêu tăng trưởng kinh tế hai con số, trong khi tăng trưởng luôn đi kèm với phát thải khí nhà kính. Do vậy, theo ông Hưng, rủi ro của vấn đề này là nếu không sớm hoàn thiện và đồng bộ các công cụ tài chính xanh, đặc biệt là công cụ thị trường carbon, chúng ta có thể sẽ khó đạt được mục tiêu cam kết giảm phát thải theo kịch bản phát triển thông thường.
Ông Hưng cho biết thêm, tại Hội nghị COP29 được tổ chức tại Azerbaijan cuối năm ngoái, các nhà lãnh đạo của WB, Ngân hàng Trung ương châu Âu (ECB), Thời báo tài chính Financial Times,… cho biết họ sẽ có giải pháp để thị trường carbon thế giới hoạt động với vai trò lớn hơn của các định chế tài chính. Điều đó cho thấy, các ngân hàng lớn đã tham gia rất sâu vào thị trường carbon. Nếu Việt Nam không có sự chuẩn bị kỹ để đón đầu các nguồn tài chính đó thì rất khó để thị trường carbon trong nước chúng ta hấp dẫn các nhà đầu tư và phát triển.