Sửa Luật Quản lý nợ công để mở rộng nguồn lực phát triển
Việc sửa đổi Luật Quản lý nợ công được kỳ vọng sẽ giúp cải cách thủ tục hành chính, nâng cao trách nhiệm và hiệu quả trong huy động, sử dụng vốn vay, đảm bảo an toàn nợ công trong bối cảnh mới.
Cải thiện các chỉ tiêu an toàn nợ công
Bộ trưởng Bộ Tài chính Nguyễn Văn Thắng khẳng định, tính đến cuối năm 2024, nợ công chỉ khoảng 34,7% GDP, nợ của Chính phủ vào khoảng 32% GDP, đều thấp hơn rất nhiều so với trần Quốc hội cho phép. Đây là minh chứng rõ ràng cho sự phối hợp hiệu quả trong việc duy trì kỷ luật tài khóa, đảm bảo an ninh tài chính quốc gia.
Ông Nguyễn Quốc Phương, Cục trưởng Cục Quản lý nợ và Kinh tế đối ngoại (Bộ Tài chính) cho biết, qua hơn 7 năm thực hiện, Luật Quản lý nợ công đã đi vào cuộc sống, quản lý nhà nước về nợ công được thống nhất một đầu mối, phù hợp với thông lệ quốc tế, huy động đầy đủ các nguồn vốn phục vụ đầu tư phát triển và trả nợ gốc của ngân sách nhà nước. Đồng thời, nâng cao tính tự chịu trách nhiệm của các cơ quan sử dụng nợ công. Bên cạnh đó, công tác kiểm tra, giám sát việc sử dụng vốn vay và trả nợ công được tăng cường. Việc quản lý, kiểm soát chặt chẽ các khoản Chính phủ bảo lãnh, cho vay lại cũng được thực hiện hiệu quả. Những kết quả này góp phần cải thiện các chỉ tiêu an toàn nợ công và mở rộng dư địa tài khóa của nhà nước.
Ghi nhận những nỗ lực này, theo Báo cáo của Ngân hàng Thế giới (WB), hiệu quả quản lý nợ tổng thể của Việt Nam được đánh giá là tốt. Các thành tựu nổi bật như việc xác định rõ thẩm quyền, mục tiêu; mục đích vay nợ cụ thể; có văn bản quy phạm pháp luật quy định cho từng lĩnh vực. Về cơ cấu tổ chức, có sự phối hợp tốt giữa các bên. Chiến lược quản lý nợ có hiệu quả, được công bố định kỳ. Kiểm toán tài chính, kiểm toán tuân thủ được thực hiện hàng năm…
Tuy nhiên trong bối cảnh mới, chính sách cũng cần có những điều chỉnh thích hợp để đáp ứng nhu cầu của thực tiễn. Thời gian qua, việc sắp xếp tổ chức bộ máy nhà nước và thực hiện chủ trương phân cấp, phân quyền được đẩy mạnh; Việc tổ chức chính quyền địa phương theo mô hình hai cấp cũng đã được thực hiện. Những thay đổi này đã tác động đến thực hiện các văn bản pháp luật, trong đó có Luật Quản lý nợ công. Vì vậy, vào thời điểm này, việc sửa đổi Luật này là cần thiết nhằm hoàn thiện thể chế, đảm bảo đồng bộ với các luật liên quan.
Bên cạnh đó, ông Hoàng Hải, Phó Cục trưởng Cục Quản lý nợ và Kinh tế đối ngoại (Bộ Tài chính) cũng thẳng thắn nhìn nhận một số điểm hạn chế tại Luật Quản lý nợ công năm 2017, trong đó có việc thủ tục chuẩn bị đầu tư và thực hiện chương trình, dự án sử dụng vốn ODA và vốn vay ưu đãi nước ngoài dài hơn so với sử dụng vốn trong nước; quy trình đàm phán vay vốn, ký, sửa đổi các điều ước quốc tế về vay nợ kéo dài theo các quy định của Luật Điều ước quốc tế. Về hạn mức nợ, điểm hạn chế là Luật hiện hành quy định nội dung hạn mức nợ cần trình hai cấp phê duyệt là Chính phủ và Thủ tướng Chính phủ. Cùng với đó, chưa công khai kế hoạch vay, trả nợ hàng năm và Chương trình quản lý nợ công 3 năm…

Kiểm soát chặt chẽ nợ công và đầu tư có trọng tâm, trọng điểm là hai yếu tố hỗ trợ nền kinh tế tăng trưởng
Mong cơ chế thông thoáng, phí vay giảm
Để thực hiện được mục tiêu tăng trưởng kinh tế năm 2025 đạt trên 8%, phấn đấu tăng trưởng hai con số các năm tiếp theo, nhiệm vụ sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Quản lý nợ công năm 2017 đã được đặt ra. Dự thảo Luật lần này có nhiều nội dung mới quan trọng liên quan đến nguyên tắc quản lý nợ, phát hành trái phiếu quốc tế, xử lý vướng mắc về thuế với bên cho vay nước ngoài và cơ chế cho vay lại. Dự thảo cũng đề xuất các phương án khắc phục những điểm hạn chế nêu trên, giảm yêu cầu thủ tục để thúc đẩy quy trình huy động vốn vay ODA, vay ưu đãi nước ngoài, đơn giản hóa nội dung đề xuất vay, tập trung vào nhu cầu vay để Bộ Tài chính xây dựng kế hoạch huy động và lựa chọn khoản vay phù hợp.
Đại diện Bộ Tài chính nhận định, việc sửa đổi Luật Quản lý nợ công đồng thời cũng góp phần nâng cao hiệu quả công tác huy động và trả nợ công phục vụ thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số theo các chủ trương của Đảng, Nhà nước và giải quyết một số vướng mắc thực tế trong quá trình thực thi và quản lý.
Theo các chuyên gia, việc sửa đổi Luật Quản lý nợ công lần này còn hướng đến mục tiêu lớn hơn là cải cách thủ tục hành chính, nâng cao trách nhiệm, hiệu quả trong huy động và sử dụng vốn vay, đảm bảo an toàn nợ công trong bối cảnh mới.
Góp ý cho Dự thảo Luật, ông Đỗ Việt Dũng, cán bộ cấp cao của WB tại Việt Nam nhận định, Dự thảo Luật đã thể hiện rõ nỗ lực cải cách thể chế quản lý nợ công theo hướng thông thoáng hơn, song ông cũng nhấn mạnh, việc giảm phí vay là cần thiết, quy định mức phí cao với doanh nghiệp được đánh giá tín nhiệm thấp và ngược lại. Ngoài ra, Luật cần bổ sung quy định về bảo lãnh nhằm hỗ trợ các khoản vay cho dự án đầu tư đổi mới sáng tạo, phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao, phù hợp tinh thần Nghị quyết 57-NQ/TW; cân nhắc áp dụng công cụ bảo lãnh của bên thứ 3 như WB, theo đó, tổ chức này có thể tham gia thẩm định và chia sẻ rủi ro đối với khoản vay.
Dưới góc tiếp cận của doanh nghiệp, ông Nguyễn Xuân Nam, Phó Tổng giám đốc Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN) chia sẻ, Dự thảo Luật đã bỏ bước đề xuất dự án thay bằng đề xuất khoản vay, đồng thời, cho phép các công ty con được trực tiếp tiếp cận khoản vay, chịu trách nhiệm về khoản vay với thủ tục thực hiện đơn giản. Tuy nhiên, phí cho vay lại hiện nay khá cao, với quy định mức phí dự phòng rủi ro cho vay lại “không quá 1,5%/năm trên dư nợ vay” và “phí quản lý cho vay lại bằng 0,25%/năm tính trên dư nợ vay lại”. Đây có thể là gánh nặng cho doanh nghiệp và các khoản vay ưu đãi không còn ưu đãi. Cùng với lãi suất vay ODA không còn thấp, doanh nghiệp sẽ buộc phải cân nhắc vay thương mại thay vì vay ưu đãi. Do đó, cần sửa đổi quy định về các mức phí cho vay lại để doanh nghiệp dễ dàng tiếp cận hơn.